MONRE phản hồi về quy định được cho là “làm tăng gánh nặng, chi phí” môi trường

14:30' - 24/09/2021
BNEWS Bộ Tài nguyên và Môi trường (MONRE) đã phản hồi về các quy định được cho “làm tăng gánh nặng, chi phí” môi trường trong Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường 2020.

Một số quy định trong Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường 2020 được cho là sẽ làm "tăng gánh nặng, chi phí" về môi trường cho doanh nghiệp, mà nhiều doanh nghiệp, hiệp hội phản ánh trên báo chí thời gian qua, được Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp thu và thông tin chi tiết về vấn đề này như sau:

* Đánh giá tác động môi trường và giấy phép môi trường

Một số hiệp hội, báo chí cho rằng, trước đây, chỉ có các dự án gây ô nhiễm đến môi trường (nhóm I) mới phải làm đánh giá tác động môi trường và xin giấy phép môi trường, nhưng với quy định mới thì các dự án và nhà máy nhóm I và nhóm II, kể cả đã hoạt động cũng phải làm đánh giá tác động môi trường và xin giấy phép môi trường là không có cơ sở.

Tuy nhiên, theo Khoản 1 Điều 30 Luật Bảo vệ môi trường quy định đối tượng phải thực hiện đánh giá tác động môi trường là dự án nhóm I và nhóm II có yếu tố nhạy cảm về môi trường như xả thải vào nguồn nước cấp sinh hoạt, đầu tư trong khu bảo tồn thiên nhiên, rừng, di tích lịch sử văn hóa…

Điều 39 quy định đối tượng phải có giấy phép môi trường gồm dự án đầu tư nhóm I, nhóm II và nhóm III có phát sinh nước thải, bụi, khí thải xả ra môi trường phải được xử lý, hoặc phát sinh chất thải nguy hại phải được quản lý theo quy định về quản lý chất thải khi đi vào vận hành chính thức; dự án đầu tư, cơ sở, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp hoạt động trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành có tiêu chí về môi trường như đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này.

Dự thảo Nghị định mới nhất đã tiếp thu ý kiến của các hiệp hội, doanh nghiệp theo hướng đơn giản hóa về hồ sơ, trình tự đề nghị cấp giấy phép môi trường như nội dung báo cáo đề xuất cấp giấy phép đơn giản hơn, phù hợp với từng đối tượng; bỏ trình tự về thông báo việc nộp phí thẩm định cấp giấy phép, đơn giản hóa quy trình rà soát tính hợp lệ của hồ sơ theo hướng chỉ thực hiện 1 lần, chỉ yêu cầu báo cáo nghiên cứu khả thi hoặc tài liệu tương đương đối với dự án đầu tư không thuộc đối tượng thực hiện đánh giá tác động môi trường, hoặc cơ sở đang hoạt động thì chỉ cần nộp văn bản đề nghị và báo cáo đề xuất cấp giấy phép, trường hợp điều chỉnh thì chỉ nộp văn bản đề xuất điều chỉnh.

Quy trình cấp cũng được đơn giản hóa theo tính chất dự án, như trường hợp các dự án không có công trình xử lý chất thải phải vận hành thử nghiệm và trường hợp điều chỉnh giấy phép thì được thực hiện qua hệ thống dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trong thời gian không quá 15 ngày.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 34 của Luật, việc cấp giấy phép môi trường, dự thảo Nghị định cũng chỉ quy định trong trường hợp cần thiết đối với các dự án thuộc nhóm I, nhóm II, cơ quan cấp giấy phép mới thành lập đoàn kiểm tra...

* Quan trắc chất thải

Bộ đã tiếp thu, sửa đổi một số nội dung như không quy định mức xả thải càng lớn thì phải thực hiện tần suất quan trắc định kỳ càng nhiều (6 hoặc 12 lần/năm), thay vào đó chỉ áp dụng đối với nguồn nước thải có lưu lượng xả thải lớn (trên 200 m3/ngày đối với loại hình gây ô nhiễm và trên 500 m3/ngày đối với loại hình khác), nguồn khí thải có lưu lượng xả thải lớn (trên 50.000 m3/giờ…).

Đặc biệt, các dự án, cơ sở thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường trong 3 năm liên tiếp, không vi phạm hành vi xả thải vượt quy chuẩn Việt Nam thì được miễn thực hiện quan trắc định kỳ trong thời hạn của giấy phép môi trường.

Dự thảo Nghị định đã tiếp thu ý kiến góp ý, hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua đại dịch COVID-19, lùi thời gian hoàn thành lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, liên tục đối với tất cả các trường hợp đến hết ngày 31/12/2024. Các trường hợp đã lắp đặt thì được miễn thực hiện quan trắc định kỳ trong thời gian này.

Từ ngày 1/1/2025, dự án, cơ sở đã lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, liên tục với các thông số ô nhiễm đặc trưng của nguồn thải thì được miễn thực hiện quan trắc chất thải định kỳ. Trước mắt, yêu cầu các dự án, cơ sở có phát sinh bụi, khí thải với lưu lượng rất lớn (trên 100.000m3/giờ) quan trắc tự động, liên tục.

Ngoài ra, việc quy định các cơ sở chế biến thủy sản thuộc Mục III danh mục loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường để có sự kiểm soát chặt chẽ hơn là cần thiết, phù hợp với các quy định của quốc tế; qua đó sẽ tạo thuận lợi cho các sản phẩm chế biến thủy sản của Việt Nam có thể đáp ứng được các yêu cầu về bảo vệ môi trường khi tham gia thị trường thế giới.

Tuy nhiên, loại hình này cũng chỉ được xếp vào mục III là nhóm có nguy cơ thấp nhất so với các loại hình thuộc mục I và mục II. 

* Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhập khẩu

Dự thảo Nghị định không quy định cụ thể tỷ lệ tái chế cho từng sản phẩm, bao bì, mà chỉ quy định công thức tham chiếu và quy trình xác định tỷ lệ tái chế bắt buộc cho từng giai đoạn.

Việc xác định tỷ lệ tái chế cụ thể do Hội đồng cơ chế trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất quốc gia thảo luận, quyết định trên cơ sở công thức tính tỷ lệ tái chế tham chiếu, mục tiêu tái chế quốc gia và tình hình kinh tế-xã hội của từng giai đoạn.

Tỷ lệ dự kiến cao nhất là bao bì nhôm, chai PET mức 22,5% và thấp nhất là phương tiện giao thông ở mức 1,8%.

Tỷ lệ này chỉ bằng 1/3 tỷ lệ tái chế của các quốc gia ở Châu Âu từ những năm 80 và 90 của thế kỷ trước, đối với phương tiện giao thông thì chỉ bằng 1/5 của Châu Âu thời điểm mới bắt đầu áp dụng cơ chế trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất. Dự thảo Nghị định đang quy định mức tăng tỷ lệ tái chế bắt buộc không quá 5% cho 3 năm, như vậy Việt Nam sẽ mất ít nhất 20-30 năm mới đạt tỷ lệ như các quốc gia ở Châu Âu tại thời điểm này.

Các nguyên, vật liệu phải thu hồi được tối thiểu là 50%, không phải là tỷ lệ tái chế bắt buộc, tỷ lệ thu hồi đặt ra nhằm tối ưu hóa việc tái chế và thấp hơn khoảng 15-30% so với Châu Âu ở giai đoạn bắt đầu áp dụng cơ chế trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất.

Về đóng góp tài chính để hỗ trợ tái chế được quy định tại Điều 54 Luật Bảo vệ Môi trường 2020 không phải là khoản thuế, phí hay lệ phí theo quy định của pháp luật về thuế, phí và lệ phí, mà đây là quy định trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu trong trường hợp không trực tiếp thực hiện tái chế, do đó không thể được coi là một nguồn thu thuế, phí.

Nhiều nước trên thế giới đã triển khai cơ chế trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, đều không coi đóng góp tài chính này là nguồn thu ngân sách nhà nước như thuế, phí. Cơ quan nhà nước chỉ thực hiện giám sát và kiểm tra việc sử dụng để đảm bảo đúng mục đích là hỗ trợ cho hoạt động tái chế.

Việt Nam đã có nhiều quy định tương tự như Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng theo Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (nay là Luật Lâm nghiệp), Quỹ Phòng, chống thiên tai theo Luật Phòng, chống thiên tai, Quỹ Phòng, chống tác hại thuốc lá theo Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá và nhiều loại quỹ khác.

Các khoản thu này không thuộc về ngân sách, không chỉ giúp giảm gánh nặng ngân sách nhà nước, mà đồng thời tạo ra nguồn tài chính ổn định nhằm thực hiện các mục tiêu cụ thể hiệu quả hơn.

Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp tục đăng tải Dự thảo Nghị định đã được tiếp thu, hoàn thiện tại địa chỉ: www.monre.gov.vn để tiếp tục nhận ý kiến của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong quá trình hoàn thiện trước khi trình Chính phủ xem xét, ban hành.

Luật Bảo vệ môi trường 2020 sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2022. Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ Môi trường 2020 gồm 13 Chương, 197 Điều, bảo đảm phù hợp với thực tế, tính hợp lý, minh bạch cao, tính khả thi và chủ trương cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành.

Dự thảo Nghị định kế thừa, phát triển những quy định còn phù hợp của pháp luật về bảo vệ môi trường hiện hành, cũng như bổ sung những quy định mới để khắc phục một cách cơ bản các khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tế của pháp luật về bảo vệ môi trường hiện hành./.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục