Sau 6 năm thực thi, tỷ lệ cấp Giấy chứng nhận xuất xứ tăng tích cực

11:00' - 13/12/2025
BNEWS Sau 6 năm Hiệp định CPTPP được triển khai, tỷ lệ cấp giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) và mức độ tận dụng ưu đãi thuế quan của doanh nghiệp Việt Nam đã ghi nhận những chuyển biến tích cực.

Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết: Sau 6 năm Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) được triển khai, tỷ lệ cấp giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) và mức độ tận dụng ưu đãi thuế quan của doanh nghiệp Việt Nam đã ghi nhận những chuyển biến tích cực, dù vẫn còn thấp hơn so với một số hiệp định thương mại (FTA) thế hệ mới khác.

 

Theo Cục Xuất nhập khẩu, CPTPP là một trong những FTA thế hệ mới đầu tiên có hiệu lực tại Việt Nam. Thống kê cho thấy, năm 2019, năm đầu hiệp định được thực thi kim ngạch hàng hóa xuất khẩu sang các thị trường CPTPP được cấp C/O mới đạt khoảng 0,7 tỷ USD, tương đương gần 2% tổng kim ngạch. Đến năm 2024, con số này đã tăng lên khoảng 5 tỷ USD, chiếm khoảng 8,8%.

Chia sẻ cụ thể về tình hình cấp C/O theo CPTPP, bà Trịnh Thị Thu Hiền – Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu cho biết: Trong 6 năm thực thi hiệp định, tỷ lệ cấp giấy chứng nhận xuất xứ theo CPTPP đã có sự tăng trưởng rõ rệt. Nếu như năm 2019 là năm đầu tiên CPTPP có hiệu lực tại Việt Nam chỉ có khoảng 0,7 tỷ USD kim ngạch hàng hóa xuất khẩu sang các thị trường CPTPP được cấp C/O, tương đương khoảng 2% tổng kim ngạch xuất khẩu sang khối, đến năm 2024, giá trị hàng hóa được cấp C/O đã tăng lên khoảng 5 tỷ USD, chiếm tương đương 8,8%.

Đáng chú ý, tại một số thị trường lần đầu tiên Việt Nam có FTA trong khuôn khổ CPTPP, tỷ lệ tận dụng ưu đãi xuất xứ tăng mạnh. Đơn cử như thị trường Mexico, năm 2019 chỉ có khoảng 7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này được cấp C/O theo CPTPP nhưng đến năm 2024, tỷ lệ này đã tăng lên khoảng 47%.

Xét theo từng nhóm hàng, tỷ lệ cấp C/O đối với hàng hóa xuất khẩu sang Mexico ở mức rất cao. Cụ thể, kim ngạch thủy sản xuất khẩu sang thị trường này được cấp C/O chiếm khoảng 70 – 80%, trong khi nhóm hàng da giày có tỷ lệ trên 80%. Đối với thị trường Canada, bà Trịnh Thị Thu Hiền cho biết, năm 2019, tỷ lệ kim ngạch hàng hóa xuất khẩu có C/O CPTPP mới chỉ đạt khoảng 8%. Tuy nhiên, đến năm 2024, con số này đã tăng lên mức 17 – 18%. Trong số đó, một số mặt hàng có tỷ lệ tận dụng ưu đãi xuất xứ khá cao, như vali, túi xách, mũ, ô dù, thảm cói, mây tre đan… với tỷ lệ kim ngạch được cấp C/O CPTPP đạt khoảng 42 – 45% trong năm 2024. Riêng nhóm hàng thủy sản xuất khẩu sang Canada, tỷ lệ này đạt khoảng 80%.

Bà Trịnh Thị Thu Hiền cũng chỉ ra rằng: Những con số trên cho thấy xu hướng tăng trưởng tích cực trong việc tận dụng ưu đãi xuất xứ CPTPP, đặc biệt tại những thị trường lần đầu tiên dành ưu đãi thuế quan cho hàng hóa Việt Nam. Kết quả này phản ánh nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp xuất khẩu trong việc từng bước nắm bắt, đáp ứng quy tắc xuất xứ của hiệp định nhằm gia tăng khả năng cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam tại các thị trường CPTPP. Đồng thời, đây cũng là kết quả từ các hoạt động tuyên truyền, phổ biến thông tin về các FTA nói chung và CPTPP nói riêng do Bộ Công Thương cùng các bộ, ngành triển khai trong thời gian qua.

Mặc dù có sự tăng trưởng, song nếu so sánh với các FTA thế hệ mới khác như Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) hay Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Vương quốc Anh (UKVFTA), tỷ lệ tận dụng ưu đãi xuất xứ theo CPTPP vẫn ở mức thấp hơn.

Phân tích nguyên nhân của sự chênh lệch này, bà Trịnh Thị Thu Hiền cho rằng, đối với các thị trường như EU hay Vương quốc Anh, mỗi thị trường chỉ gắn với một FTA duy nhất với Việt Nam. Do đó, nếu doanh nghiệp không sử dụng ưu đãi từ EVFTA hoặc UKVFTA thì hầu như không có cơ chế ưu đãi thuế quan nào khác để thay thế.

Ngược lại, trong khuôn khổ CPTPP, nhiều nước thành viên đồng thời cùng Việt Nam tham gia nhiều FTA khác nhau. Điều này dẫn tới việc doanh nghiệp có thể lựa chọn nhiều bộ quy tắc xuất xứ và nhiều cơ chế ưu đãi thuế quan song song, khiến tỷ lệ sử dụng C/O mẫu CPTPP bị chia sẻ với các hiệp định khác.

Chẳng hạn, đối với thị trường Australia, Việt Nam và Australia cùng là thành viên của CPTPP, Hiệp định ASEAN – Australia – New Zealand và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP). Như vậy, hàng hóa xuất khẩu sang Australia có thể lựa chọn hưởng ưu đãi thuế quan theo ba khuôn khổ khác nhau, tương ứng với ba bộ quy tắc xuất xứ khác nhau.

Tương tự, với thị trường Nhật Bản, Việt Nam và Nhật Bản hiện cùng tham gia 4 FTA gồm CPTPP, Hiệp định ASEAN – Nhật Bản, Hiệp định Việt Nam – Nhật Bản và Hiệp định RCEP. Do đó, hàng hóa xuất khẩu sang Nhật Bản có thể hưởng ưu đãi thuế quan theo nhiều cơ chế khác nhau.

Thực tế cho thấy, nếu chỉ xét riêng tỷ lệ C/O mẫu CPTPP đối với hàng hóa xuất khẩu sang Nhật Bản, con số này chỉ ở mức khoảng 3 – 5%. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chỉ có từng đó hàng hóa được hưởng ưu đãi thuế quan. Đặc biệt, hiện nay tỷ lệ cấp C/O ưu đãi theo Hiệp định ASEAN – Nhật Bản đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt khoảng 25%, theo Hiệp định Việt Nam – Nhật Bản khoảng 20% và theo RCEP khoảng gần 5%. Khi cộng gộp các hình thức ưu đãi này, tổng tỷ lệ kim ngạch hàng hóa xuất khẩu sang Nhật Bản được hưởng ưu đãi thuế quan hiện nay lên tới khoảng 50%.

Những con số và các dẫn chứng cụ thể nêu trên đã làm rõ nguyên nhân của sự chênh lệch trong tỷ lệ cấp và sử dụng C/O ưu đãi CPTPP tại một số thị trường, cũng như sự khác biệt so với các FTA khác như UKVFTA hay EVFTA. Theo đó, đối với các thị trường như EU hay Vương quốc Anh, mỗi thị trường chỉ gắn với một FTA ưu đãi duy nhất, trong khi với CPTPP, cùng một thị trường nhưng doanh nghiệp có thể lựa chọn và áp dụng nhiều FTA khác nhau. Chính đặc thù này dẫn tới việc tỷ lệ cấp và sử dụng C/O ưu đãi CPTPP có sự phân bổ, chia sẻ với các hiệp định còn lại.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục