Tăng tỷ lệ tận dụng chứng nhận xuất xứ từ FTA để thúc đẩy xuất khẩu

16:55' - 05/12/2025
BNEWS Tỷ lệ tận dụng chứng nhận xuất xứ (C/O) ưu đãi từ các hiệp định thương mại tự do (FTA) thấp hơn kỳ vọng đang trở thành một câu hỏi lớn trong nỗ lực thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam.
Trong khi mạng lưới FTA của Việt Nam thuộc nhóm rộng nhất thế giới, nhiều ngành hàng vẫn chưa chuyển hóa được ưu đãi thuế quan thành lợi thế cạnh tranh thực sự. Điều này cho thấy việc ký kết FTA mới chỉ mở ra khung cửa nhưng việc bước qua và khai thác giá trị lại phụ thuộc rất nhiều vào năng lực thực thi của doanh nghiệp, chất lượng thể chế hỗ trợ và tính kết nối của cả hệ sinh thái xuất khẩu. Khoảng trống C/O vì thế không phải là vấn đề kỹ thuật đơn lẻ mà phản ánh những hạn chế mang tính cấu trúc của nền kinh tế.

 
Ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách Thương mại đa biên, cho biết việc tận dụng các hiệp định thương mại tự do (FTA) hiện chỉ đạt trung bình 32-33%. Cụ thể, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) khoảng 16%, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA) khoảng 38%, EVFTA khoảng 35%. Nguyên nhân xuất phát từ cả phía doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý.

Ngoài ra, doanh nghiệp vẫn còn tư duy thích gần, thích dễ, nhiều doanh nghiệp thấy đủ không muốn nâng tầm thương hiệu hay mở rộng thị trường; đồng thời, thiếu thông tin về thị trường, thiếu nguồn lực, kết nối yếu và cạnh tranh nội bộ chưa lành mạnh, triệt tiêu thế mạnh lẫn nhau. Hơn nữa, Chương trình hỗ trợ tận dụng FTA chưa rõ ràng; kế hoạch có nhưng thiếu triển khai thực chất; năng lực địa phương hạn chế khi mỗi tỉnh chỉ có một vài cán bộ phụ trách, kiêm nhiệm nhiều việc.

Theo ông Ngô Chung Khanh, sắp tới sẽ có hệ sinh thái FTA kết nối chủ thể trong và ngoài nước để hỗ trợ hiệu quả hơn. Kỳ vọng hệ sinh thái ra đời sẽ giúp doanh nghiệp tận dụng tốt hơn các ưu đãi từ các FTA, qua đó thúc đẩy xuất khẩu và mở rộng thị trường.

Bà Hoàng Thị Liên, Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu và Cây gia vị Việt Nam chia sẻ rằng, khó khăn lớn nhất khi tham gia FTA là vấn đề bền vững và truy xuất nguồn gốc, sau đó mới đến xây dựng thương hiệu.

“Thị trường EU hiện có hơn 535 tiêu chí về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật. Do sản phẩm nông nghiệp phụ thuộc thời tiết, dịch bệnh, bà con phải áp dụng các biện pháp chăm sóc cây để đảm bảo sản lượng. Xuất khẩu sang EU đòi hỏi giám sát chất lượng tuyệt đối”, bà Liên cho biết.

Các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ còn gặp khó khi gom nhiều hộ để tạo mẫu đồng nhất. Chi phí kiểm định chất lượng tại phòng lab quốc tế rất cao từ 3 - 5 triệu đồng/mẫu, trong khi phòng lab trong nước chưa được công nhận ISO. Việc hoàn thuế VAT cũng gặp ách tắc, gây khó khăn về vốn cho vụ mùa mới. Do đó, Nhà nước nên hỗ trợ chuỗi vì doanh nghiệp vừa và nhỏ yếu nhất là năng lực tài chính để đáp ứng yêu cầu chứng chỉ. Cùng đó là phòng lab, ngành nông nghiệp chỉ có hai phòng lab được nhà mua quốc tế chấp nhận là SGS và Eurofins nên cần đầu tư phòng lab địa phương đạt chuẩn để hỗ trợ doanh nghiệp.

Theo ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, khai thác các FTA như CPTPP, ngành dệt may mới sử dụng khoảng 15%; EVFTA khoảng 30 - 35%. Nguyên phụ liệu còn yếu, đặc biệt là vải, dệt, nhuộm, và đây là vấn đề mà doanh nghiệp, cơ quan quản lý và địa phương chưa giải quyết triệt để. Vì vậy, chiến lược tiếp theo là đa dạng hóa thị trường, khách hàng và sản phẩm để khai thác tốt các thị trường toàn cầu. Ngoài thị trường truyền thống, ngành đang chú trọng Trung Đông với dân số khoảng 370 triệu người và GDP khoảng 5.500 tỷ USD. Đây là thị trường tiềm năng nhưng để khai thác còn thiếu rất nhiều, đặc biệt thông tin thị trường và yêu cầu tiêu chuẩn như Halal, loại vải thông thoáng.

Thực tế cho thấy ở một số thị trường lớn như EU, Anh hoặc Canada có mức cắt giảm thuế cao, doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa tận dụng tương xứng ưu đãi. Đại diện Cục Xuất nhập khẩu đánh giá: Tỷ lệ sử dụng C/O ưu đãi của nhiều ngành chỉ quanh mức 20– 30%, thấp hơn đáng kể so với tiềm năng. Điều này cho thấy doanh nghiệp chưa thật sự bước vào sân chơi FTA một cách chủ động. Ngay cả với FTA thế hệ mới, Việt Nam có lợi thế lớn, tỷ lệ tận dụng cũng chưa tạo được bứt phá tương xứng với kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng.

Một trong những nguyên nhân lớn nhất nằm ở việc quy tắc xuất xứ trong nhiều FTA vẫn rất phức tạp so với khả năng của doanh nghiệp trong nước. Các ngành như dệt may, da giày, điện tử và đồ gỗ vẫn phụ thuộc lớn vào nguyên phụ liệu nhập khẩu từ các nước ngoài khối. Điều này dẫn đến hiện tượng sản phẩm không đáp ứng yêu cầu xuất xứ để được hưởng thuế ưu đãi.

Thêm vào đó, yêu cầu tuân thủ tiêu chuẩn của các FTA thế hệ mới không chỉ dừng ở hồ sơ và thuế quan mà gắn chặt với tiêu chí về môi trường, lao động, phát thải carbon và truy xuất nguồn gốc. Đây là những rào cản mới mà doanh nghiệp nhỏ và vừa khó đáp ứng do thiếu vốn đầu tư cho hệ thống quản trị hiện đại.

Theo các chuyên gia, FTA hiện đại đòi hỏi doanh nghiệp phải đổi mới toàn diện. Nếu không chuẩn hóa sản xuất, minh bạch dữ liệu và đáp ứng tiêu chuẩn xanh, ưu đãi thuế quan dù hấp dẫn đến mấy cũng trở nên vô nghĩa. Không ít doanh nghiệp thậm chí né tránh dùng C/O vì sợ bị hậu kiểm hoặc không đủ nhân lực chuyên môn để xử lý thủ tục.

Ngoài ra, việc tiếp cận thông tin về FTA vẫn còn hạn chế bởi nhiều doanh nghiệp chưa được trang bị đầy đủ kiến thức về cam kết từng hiệp định, nhất là cách áp dụng quy tắc xuất xứ theo từng mặt hàng. Nhiều khóa tập huấn được tổ chức, nhưng tính thực tiễn đôi khi chưa cao hoặc chưa chạm đúng nhu cầu của doanh nghiệp nhỏ và vừa nhóm chiếm tỷ trọng khoảng 97% số doanh nghiệp Việt Nam.

Cùng với đó, hạ tầng hỗ trợ FTA cũng là một nút thắt do các thủ tục cấp C/O vẫn cải thiện nhưng chưa hoàn toàn thuận lợi; việc số hóa đang diễn ra nhưng chưa đồng bộ. Một số giấy tờ bổ sung hoặc quy trình kiểm tra còn mất thời gian, khiến doanh nghiệp ngại đăng ký ưu đãi. Hơn nữa, thiếu liên kết chuỗi giá trị trong nước làm cho công nghiệp hỗ trợ chưa đủ khả năng đáp ứng tiêu chí xuất xứ nội khối. Điều này cho thấy tận dụng FTA không chỉ là câu chuyện pháp lý mà còn là bài toán cơ cấu lại ngành công nghiệp.

Các chuyên gia cũng nhấn mạnh vai trò của quản trị nội bộ và nâng cao năng lực doanh nghiệp. Ông Lê Sỹ Giảng- Giám đốc điều hành CHG Consulting & Advisory, lưu ý, rủi ro pháp lý và rào cản là khách quan. Điều doanh nghiệp có thể làm là dự báo và chuẩn bị ứng phó. Các rủi ro liên quan tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường, hoặc phòng vệ thương mại đều cần quản trị chặt chẽ. Doanh nghiệp phải nâng cao hiểu biết về rào cản, quản trị chất lượng sản phẩm và quản lý toàn bộ chu trình sản xuất. Chẳng hạn như hệ thống ghi nhận đầy đủ từ đầu vào đến đầu ra để khi bị yêu cầu truy xuất nguồn gốc, doanh nghiệp có thể trả lời ngay.

Ngoài ra, hiệp hội đóng vai trò quan trọng trong kết nối, tư vấn và hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận FTA. Công việc này bao gồm hỗ trợ hoàn thuế VAT, cập nhật tiêu chuẩn kỹ thuật, cảnh báo tranh chấp thương mại, hướng dẫn đàm phán hợp đồng quốc tế và kết nối chuỗi cung ứng trong nước.

Từ ngành hồ tiêu, gia vị đến dệt may, các doanh nghiệp Việt Nam đều chung thách thức khi thiếu nguồn lực, thông tin và chuẩn hóa chất lượng để tận dụng ưu đãi FTA. Tuy nhiên, cơ hội vẫn rộng mở nếu có chiến lược rõ ràng, chuẩn bị kỹ lưỡng và sự hỗ trợ đồng bộ từ Nhà nước, hiệp hội và cộng đồng doanh nghiệp.

Theo các chuyên gia, tận dụng C/O từ FTA để tăng xuất khẩu không chỉ là vấn đề cơ chế mà còn là bài toán về năng lực doanh nghiệp, kết nối thị trường và chuẩn hóa chất lượng sản phẩm. Để nâng cao tỷ lệ sử dụng FTA cần đồng bộ nhiều giải pháp như nâng cao nhận thức, đào tạo chuyên môn, đầu tư cơ sở hạ tầng kiểm định, hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, kết nối thông tin thị trường quốc tế. Chỉ khi các yếu tố này được triển khai đồng bộ, cơ hội từ FTA mới thực sự được chuyển hóa thành tăng trưởng xuất khẩu bền vững cho Việt Nam.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục