Tác động của dự luật cơ sở hạ tầng đối với kinh tế Mỹ
Tờ Wall Street Journal dẫn lời các nhà kinh tế nhận định rằng, dự luật cơ sở hạ tầng nhận được sự ủng hộ của các nghị sỹ lưỡng đảng tại Mỹ khó có thể tác động lớn đến tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ trong vài năm tới. Tuy nhiên, trong dài hạn, các khoản đầu tư vào đường cao tốc, cảng biển và băng thông rộng có thể giúp nền kinh tế Mỹ hoạt động hiệu quả và năng suất hơn.
Các nhà kinh tế cho biết, việc thúc đẩy tăng trưởng trong ngắn hạn sẽ tương đối hạn chế vì hai lý do. Đầu tiên, dự luật chỉ đề xuất khoản chi tiêu mới trị giá khoảng 550 tỷ USD cho cơ sở hạ tầng, con số tương đối nhỏ so với gần 6.000 tỷ USD mà Quốc hội Mỹ đã thông qua trong một năm rưỡi qua để ứng phó với đại dịch COVID-19 và suy thoái kinh tế.
Thứ hai, chi tiêu cho cơ sở hạ tầng sẽ diễn ra trong khoảng thời gian từ 5 đến 10 năm bắt đầu từ năm 2022, một mốc thời gian dài hơn so với các sáng kiến được đưa ra trong thời kỳ dịch bệnh như các khoản tiền kích thích nền kinh tế, trợ cấp thất nghiệp bổ sung và các chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ. Điều đó sẽ khiến cho ảnh hưởng trực tiếp của dự luật đến nhu cầu và tuyển dụng việc làm ít được chú ý hơn.
Ông Alec Phillips, nhà kinh tế chính trị của Goldman Sachs Research, cho biết dự luật cơ sở hạ tầng có thể khiến Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Mỹ tăng thêm khoảng 0,2% trong năm 2022 và 0,3% trong năm 2023.
Để so sánh, theo Văn phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ (CBO), kế hoạch "giải cứu nước Mỹ" trị giá 1.900 tỷ USD của Tổng thống Joe Biden, được Quốc hội thông qua vào tháng Ba, dự kiến sẽ nâng chi tiêu của chính phủ lên tương đương 4,9% GDP trong tài khóa hiện tại.
Chắc chắn, tác động của chương trình này và các gói kích thích tức thời khác đang bắt đầu giảm dần khi các chương trình cứu trợ đại dịch hết hạn, chẳng hạn như khoản tăng thêm 300 USD trợ cấp thất nghiệp hàng tuần sẽ đáo hạn vào tháng Chín tới. Chi tiêu bổ sung cho cơ sở hạ tầng có thể cũng giảm bớt khi tổng chi tiêu của chính phủ giảm.
Các chuyên gia CBO dự kiến tốc độ tăng trưởng kinh tế của Mỹ sẽ chậm lại dần, từ mức khoảng 7,4% trong năm 2021 - năm phục hồi nhanh chóng sau đại dịch COVID-19 - xuống còn khoảng 3,1% vào năm 2022 và 1,1% năm 2023. Các dự báo không bao gồm các tác động có thể có từ dự luật cơ sở hạ tầng.
Không giống như các chương trình cứu trợ đại dịch được ban hành trong hơn một năm rưỡi qua, mục tiêu chính của dự luật cơ sở hạ tầng là nâng cao tiềm năng tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế Mỹ bằng cách làm cho các doanh nghiệp và người lao động hoạt động năng suất hơn. Ví dụ như những con đường tốt hơn, vận chuyển hàng hóa nhanh hơn và cắt giảm thời gian lãng phí khi tắc đường.
Mark Zandi, nhà kinh tế trưởng tại Moody’s Analytics, cho biết, tác dụng thúc đẩy việc làm của dự luật sẽ đạt đến đỉnh điểm vào cuối năm 2025, với 660.000 việc làm dự kiến được tạo thêm.
Trích dẫn các nghiên cứu bên ngoài, Phó Thư ký báo chí Nhà Trắng Andrew Bates cho biết, thỏa thuận cơ sở hạ tầng dự kiến sẽ tạo ra gần nửa triệu việc làm trong lĩnh vực sản xuất mới trong vòng 4 năm tới.
Tuy nhiên, ông Karen Dynan - Giáo sư kinh tế tại Đại học Harvard, người từng là nhà kinh tế trưởng tại Bộ Tài chính Mỹ từ năm 2014 đến năm 2017 - nhận định: “Chúng ta không có nhiều dữ liệu tốt. Những ảnh hưởng có xu hướng sẽ chậm dần theo thời gian. Đó là những dự án lớn có ảnh hưởng đến nhiều bộ phận khác nhau của nền kinh tế và vì vậy rất khó để định lượng”.
CBO ước tính trong một báo cáo hồi năm 2016 rằng cứ mỗi đồng USD đầu tư vốn của chính phủ liên bang, sản lượng của khu vực tư nhân tăng khoảng 5 xu. Tỷ lệ đó bằng khoảng một nửa so với ước tính của CBO về tỷ suất sinh lợi của các khoản đầu tư tư nhân. Tuy nhiên, tỷ lệ lợi nhuận phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố.
Theo một báo cáo của CBO vào cuối tuần trước, các khoản đầu tư được thanh toán có xu hướng nâng cao sản lượng kinh tế dài hạn hơn so với những khoản làm tăng thâm hụt ngân sách, bởi vì nhiều khoản vay của chính phủ cao hơn so với các khoản đầu tư của khu vực tư nhân. CBO dự báo gói cơ sở hạ tầng sẽ làm tăng thâm hụt liên bang thêm 256 tỷ USD trong 10 năm tới.
Chất lượng và chi phí của các dự án được thực hiện cũng là các yếu tố cần xem xét. Nghiên cứu cho thấy sự phát triển của hệ thống đường cao tốc liên bang trong giai đoạn từ những năm 1950 đến 1970 đã giúp kinh tế Mỹ trở nên năng suất hơn nhiều. Nhưng các chuyên gia cảnh báo rằng điều đó không có nghĩa là xây dựng một hệ thống thứ hai như vậy sẽ mang lại lợi nhuận tương tự.
James Poterba, nhà kinh tế học tại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) chuyên nghiên cứu về cơ sở hạ tầng, cho biết: “Chúng tôi muốn tránh tình trạng các cây cầu được xây dựng không dẫn đến đâu”. Cần phải lưu ý rằng cơ sở hạ tầng ở Mỹ có xu hướng đắt đỏ hơn nhiều so với các quốc gia khác. Những yêu cầu như sử dụng lao động của liên đoàn hoặc thép do Mỹ sản xuất cũng như các khoản chi phí đầu vào khác có thể sẽ làm gia tăng chi phí. Ông Poterba nói: “Chúng ta nên xem xét các cách thức có thể thực hiện chi tiêu sao cho thu được nhiều lợi nhuận nhất”./.
Tin liên quan
-
Kinh tế Thế giới
Khủng hoảng vận tải đường bộ hối thúc các doanh nghiệp Mỹ tìm tài xế từ nước ngoài
14:02' - 10/08/2021
Các công ty tại Mỹ đang cố gắng hết sức để tìm kiếm và đưa tài xế xe tải với một tốc độ chưa từng thấy, do thiếu thốn nặng nề nhân viên có khả năng lái xe tải đường dài đến mức đáng báo động.
-
Kinh tế Thế giới
Mỹ: Đảng Dân chủ công bố văn bản Kế hoạch chi tiêu 3.500 tỷ USD
10:31' - 10/08/2021
Các nghị sĩ đảng Dân chủ Mỹ ngày 9/8 đã phát hành văn bản nội dung Kế hoạch ngân sách trị giá 3.500 tỷ USD mà không cần sự hỗ trợ của đảng Cộng hòa.
-
Kinh tế Thế giới
Dịch COVID-19: Mỹ thay đổi chiến lược từ “củ cà rốt” sang “cây gậy”
06:30' - 07/08/2021
Ngày 6/8, nhật báo The Washington Post đưa tin các bang và doanh nghiệp trên toàn nước Mỹ đang bắt đầu thay đổi chiến lược từ “củ cà rốt” sang “cây gậy” nhằm thúc đẩy việc tiêm vaccine phòng COVID-19.
Tin cùng chuyên mục
-
Kinh tế Thế giới
Rào cản đối với số hóa và phát triển trí tuệ nhân tạo tại Đức
07:42'
71% số công ty được khảo sát cho rằng quy định bảo vệ dữ liệu cần điều chỉnh cho phù hợp với thời đại AI và 63% cho rằng các công ty AI đang bị đẩy ra khỏi EU do luật bảo vệ dữ liệu quá cứng nhắc.
-
Kinh tế Thế giới
EU nhất trí dừng hoàn toàn nhập khẩu khí đốt của Nga vào cuối năm 2027
06:30'
Chủ tịch EC Ursula von der Leyen cho rằng thỏa thuận này mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên châu Âu hoàn toàn chấm dứt sự phụ thuộc vào năng lượng của Nga.
-
Kinh tế Thế giới
Kim ngạch thương mại ASEAN - Trung Quốc dự kiến cán mốc 1.000 tỷ USD
05:30'
Kim ngạch thương mại hai chiều giữa Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Quốc đang trên đà vượt ngưỡng 1.000 tỷ USD trong năm nay.
-
Kinh tế Thế giới
Điểm tin kinh tế thế giới nổi bật ngày 3/12/2025
21:37' - 03/12/2025
Bnews/vnanet.vn cập nhật các tin tức kinh tế thế giới nổi bật trong ngày 3/12.
-
Kinh tế Thế giới
Xuất khẩu đậu tương Mỹ sang Trung Quốc tăng tốc sau nhiều tháng đóng băng
16:18' - 03/12/2025
Hoạt động xuất khẩu nông sản của Mỹ sang Trung Quốc đang tăng tốc trở lại sau nhiều tháng đình trệ vì cuộc chiến thuế quan căng thẳng giữa hai nước.
-
Kinh tế Thế giới
GDP của khu vực Arab dự kiến đạt 4.000 tỷ USD vào năm 2026
15:32' - 03/12/2025
Dhaman dự báo GDP khu vực Arab có thể chạm mốc 4.000 tỷ USD vào năm 2026, nhờ cải thiện kinh tế và triển vọng ổn định hơn, dù giá dầu giảm và rủi ro địa chính trị vẫn hiện hữu.
-
Kinh tế Thế giới
Các tập đoàn Nhật kiện Mỹ đòi hoàn thuế quan bổ sung
13:59' - 03/12/2025
Có ít nhất 9 công ty Nhật Bản, gồm Toyota Tsusho và Sumitomo Chemical, kiện Mỹ để yêu cầu hoàn toàn bộ thuế quan bổ sung nếu Tòa án Tối cao xác định các mức thuế là bất hợp pháp.
-
Kinh tế Thế giới
LHQ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu giảm còn 2,6% năm 2025
08:41' - 03/12/2025
Liên hợp quốc cảnh báo tăng trưởng toàn cầu sẽ chậm lại do biến động tài chính và bất ổn địa chính trị gia tăng, ảnh hưởng mạnh tới thương mại và đầu tư quốc tế.
-
Kinh tế Thế giới
EU đạt thỏa thuận tăng cường ưu đãi thương mại cho các nước đang phát triển
08:31' - 03/12/2025
Đây là bước tiến quan trọng trong nỗ lực của EU hỗ trợ phát triển bền vững thông qua thương mại, đồng thời tăng cường giám sát, minh bạch và trách nhiệm của các quốc gia thụ hưởng.

Người dân đeo khẩu trang phòng lây nhiễm COVID-19 tại New York, Mỹ ngày 14/4/2020. Ảnh: THX/TTXVN