Thách thức chờ đợi Hy Lạp trong thời kỳ hậu cứu trợ (Phần 1)

05:30' - 30/08/2018
BNEWS Sau 8 năm thực hiện chính sách "thắt lưng buộc bụng", Hy Lạp đã bước ra khỏi cuộc khủng hoảng nợ công lớn nhất trong lịch sử, từng đẩy nước này tới bờ vực phá sản.
Thách thức chờ đợi Hy Lạp trong thời kỳ hậu cứu trợ. Ảnh: TTXVN phát

Ngày 20/8, Hy Lạp đã chính thức thoát khỏi gói cứu trợ thứ ba, cũng chính là gói cứu trợ cuối cùng kéo dài 3 năm, bắt đầu từ năm 2015. Tuy nhiên, dù giới chính trị cho đây là một tin vui mang tính lịch sử cho Hy Lạp, nước này vẫn đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong thời gian hậu cứu trợ. 

Theo mạng www.dw.com ngày 20/8, nợ công của Hy Lạp hiện ở mức cao gấp đôi so với mức trung bình của 28 nước thành viên Liên minh châu Âu (EU). Giá trị thị trường của Hy Lạp tính theo Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã sụt giảm 1/3 kể từ khi cuộc khủng hoảng bắt đầu nổ ra ở nước này.

Và cứ trong số 5 người dân ở Hy Lạp thì có một người bị thất nghiệp. Thoạt nhìn, tình hình hiện nay không hề đem lại niềm lạc quan cho Hy Lạp.

Lâu nay, khu vực dịch vụ đóng góp nhiều nhất cho GDP của Hy Lạp, tiếp đó là ngành công nghiệp và nông nghiệp. Nhưng Hy Lạp hiện đang rất cần các nguồn thu nhập mới để tránh bị rơi trở lại tình trạng suy thoái sau khi chương trình thắt lưng buộc bụng thứ ba kết thúc vào ngày 20/8.

Xuất khẩu của Hy Lạp hiện là một nguồn thu đầy triển vọng: Bất chấp một vài năm đầy khó khăn, xuất khẩu hàng hóa của Hy Lạp đã tăng 35,5% trong giai đoạn từ 2010 đến 2017 và đây là một tín hiệu đáng khích lệ góp phần làm giảm các mối quan ngại ở Athens và Brussels.

Với xuất khẩu đang tăng dần, câu hỏi lớn hiện nay là liệu tình hình này có bền vững hay không và có đủ mạnh để giúp Athens chi trả các khoản nợ cũng như đáp ứng những cam kết khắt khe về thặng dư ngân sách cơ bản của họ hay không. Để trả lời cho câu hỏi này, trang www.dw.com đã tiến hành phân tích những dữ liệu từ giai đoạn 2010-2018.

Cuộc điều tra này đã cho thấy ý tưởng rằng thương mại là phương thuốc chữa trị sẽ đi kèm với 3 cảnh báo sau: Cảnh báo thứ nhất là chi phí lao động đã sụt giảm mạnh trong thời kỳ xảy ra khủng hoảng. Khi cuộc khủng hoảng gây tác động mạnh nhất ở Hy Lạp vào năm 2010, chi phí lao động lại ở mức cao nhất trong vòng ít nhất một thập kỷ và tiếp đó giảm mạnh.

George Pagoulatos, Giáo sư chuyên về chính trị và kinh tế của châu Âu tại Đại học Kinh tế và Kinh doanh ở Athens, cho rằng “việc tái cơ cấu tài khóa vốn diễn ra như một phần trong chương trình bình ổn thực hiện với EU đã làm giảm đáng kể chi phí lao động”.

Những gì hóa ra là có lợi cho các nhà xuất khẩu lại đi kèm với một nhược điểm: Chi phí lao động là thước đo cho cả tiền lương và các mức thuế được trả cho nhà nước. Nhìn chung, các mức tiền lương đã bị sụt giảm thậm chí còn nhiều hơn chi phí lao động, và các doanh nghiệp Hy Lạp giờ đây phải chi trả ít hơn cho những lao động có tay nghề.

Ông Pagoulatos được dẫn lời nói: "Điều quan trọng là năng suất phải được nâng lên để tiền lương có thể tăng thêm. Trong phần lớn thời kỳ khủng hoảng, những lợi ích nhờ sự cạnh tranh về tiền lương đã bị xóa bỏ bởi các yếu tố khác, chẳng hạn như gánh nặng thuế, chi phí an sinh xã hội, chi phí năng lượng và chi phí tín dụng cao hơn".

Điều này khiến hàng nghìn công ty hoặc phải đóng cửa hoặc chuyển giao các hoạt động của họ đến những nơi đánh thuế ít hơn, làm suy yếu thêm nền kinh tế. Với nền kinh tế dự kiến sẽ lấy lại đà tăng trưởng, việc lương tăng sẽ chỉ còn là vấn đề thời gian, đồng thời tính khả thi về kinh tế của các nhà xuất khẩu sẽ được thử thách.

Cảnh báo thứ hai là tình trạng thiếu sự đa dạng trong xuất khẩu. Sự so sánh khối lượng hàng hóa xuất khẩu từ tháng 1 đến tháng 5/ 2010 với cùng kỳ năm 2018 cho thấy một khu vực nổi bật - và đó không phải là khu vực sản xuất dầu ô liu hay phô mai feta, mà là các sản phẩm dầu mỏ tinh chế và những loại nhiên liệu khoáng khác.

Những sản phẩm này chiếm đến 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của Hy Lạp trong 5 tháng đầu năm 2018, vượt xa bất kỳ khu vực nào khác./.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục