Thị trường Trung Đông còn nhiều dư địa cho doanh nghiệp Việt Nam

20:41' - 17/03/2022
BNEWS Khu vực Trung Đông (bao gồm 16 quốc gia) với dân số khoảng 400 triệu người, có mức sống cao đang nổi lên là khối thị trường xuất khẩu tiềm năng cho doanh nghiệp Việt Nam.

Thị trường Trung Đông còn nhiều dư địa cho doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu là nhận định của các chuyên gia tại “Hội thảo cơ hội vàng cho xuất khẩu Việt đến các quốc gia Trung Đông sau đại dịch COVID-19” do Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư Tp. Hồ Chí Minh (ITPC) tổ chức chiều 17/3.

 

Ông Nguyễn Tuấn, Phó Giám đốc ITPC cho biết, khu vực Trung Đông (bao gồm 16 quốc gia) với dân số khoảng 400 triệu người, có mức sống cao đang nổi lên là khối thị trường xuất khẩu tiềm năng cho doanh nghiệp Việt Nam.

Tuy nhiên, quan hệ thương mại của Việt Nam với khu vực Trung Đông chủ yếu tập trung vào các quốc gia thuộc Hội đồng hợp tác Vùng vịnh (GCC) với 6 quốc gia thành viên là Các tiểu Vương quốc Ả rập thống nhất (UAE), Saudi Arabia, Kuwait, Bahrain, Qatar và Oman với tổng dân số 65 triệu người năm 2021.

Theo ông Nguyễn Tuấn, Trung Đông  có nhu cầu nhập khẩu rất lớn (giá trị mỗi loại ước tính từ 2-8 tỷ USD) đối với các mặt hàng như đồ gỗ, sản phẩm nhựa, ngũ cốc, dệt may, giày dép, cao su và sản phẩm cao su, thịt, sữa và sản phẩm sữa, rau quả các loại…

Đây đều là những mặt hàng thế mạnh của Việt Nam. Tuy nhiên tỷ trọng các mặt hàng này của Việt Nam trong cơ cấu hàng nhập khẩu của các nước Trung Đông vẫn còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng hai bên.

Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp của khu vực Trung Đông còn chưa phát triển do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt; công nghiệp sản xuất khó phát triển, nên khu vực này vẫn phải nhập khẩu nhiều thực phẩm, hàng tiêu dùng.

Thống kê cho thấy, các quốc gia này nhập khẩu khoảng 80% các mặt hàng lương thực, thực phẩm, tương đương khoảng 40 tỷ USD/năm. Đến năm 2035, tổng giá trị nhập khẩu lương thực, thực phẩm của các nước vùng Trung Đông dự kiến sẽ tăng lên 70 tỷ USD/năm.

Một thuận lợi nữa khi xuất khẩu sang Trung Đông, là mức thuế nhập khẩu chỉ từ 0-5% đối với hàng hóa nhập khẩu từ bên ngoài khối. Chính vì điều này mà Trung Đông trở thành một thị trường đầy trường tiềm năng của Việt Nam.

Riêng với Tp. Hồ Chí Minh, Trung Đông là một thị trường đầy tiềm năng và còn nhiều dư địa để khai thác. Trong những năm đây, kim ngạch xuất khẩu của Thành phố sang các quốc gia Trung Đông tăng đều theo các năm.

Chỉ riêng UAE, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2021 của Tp. Hồ Chí Minh và UAE ước đạt 340 triệu USD; trong đó xuất khẩu ước đạt 230 triệu USD tăng 12% so với năm 2020. Xuất khẩu Tp. Hồ Chí Minh sang Iraq ước đạt trên 130 triệu USD năm 2021, tăng 21%.

Các mặt hàng chính Tp. Hồ Chí Minh xuất khẩu sang thị trường các nước Trung Đông bao gồm thủy hải sản, rau củ quả, cà phê, hạt tiêu, dệt may, máy tính và linh kiện điện tử, linh kiện điện thoại…

Ông Ngô Toàn Thắng, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Kuwait thông tin, trong vài năm gần đây, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang các nước GCC gia tăng nhanh chóng và có mức tăng đột biến từ năm 2012 đến nay.

Nếu như năm 2012, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang các nước GCC mới đạt 2,7 tỷ USD, thì tới năm 2021 đã tăng gấp 4,6 lần, đạt 12,5 tỷ USD.

Theo ông Ngô Toàn Thắng, cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường GCC đang rộng mở với nhiều thuận lợi. Việt Nam có quan hệ ngoại giao, quan hệ hợp tác truyền thống hữu nghị lâu dài với các nước GCC. Bên cạnh đó, hai bên có khuôn khổ pháp lý khá đầy đủ cho việc phát triển và tăng cường quan hệ hợp tác.

Cụ thể, Việt Nam đã ký các Hiệp định Hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học kỹ thuật với 5/6 nước, ký hiệp định thương mại với 2/6 nước; hiệp định tránh đánh thuế hai lần với 5/6 nước; hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 4/6 nước; hiệp định về vận chuyển hàng không với 5/6 nước và thành lập Ủy ban liên Chính phủ/Ủy ban hỗn hợp với 5/6 nước.

“Khối GCC có sức mua lớn, khả năng thanh toán cao do có nguồn tài chính dồi dào. Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu của GCC khá phù hợp với những mặt hàng xuất khẩu thế mạnh và nhu cầu của Việt Nam, thuế nhập khẩu của khối GCC khá thấp là những cơ hội mà doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng để đẩy mạnh thương mại.”, ông Thắng chia sẻ thêm.

Đặc trưng của khu vực Trung Đông chính là hầu hết người dân đều theo đạo Hồi và chỉ tiêu dùng những sản phẩm có chứng nhận Halal. Bà Nguyễn Thị Ngọc Hằng, Giám đốc Marketing Văn phòng chứng nhận Halal – HCA Việt Nam cho biết: Chứng nhận Halal là chương trình đánh giá theo chuẩn mực quốc tế cho sản phẩm/dịch vụ có trách nhiệm.

Về điều kiện chung để sản phẩm được chứng nhận Halal, bà Nguyễn Thị Ngọc Hằng cho biết, doanh nghiệp cần đáp ứng được đồng thời 2 điều kiện là nguyên liệu Halal và dây chuyền sản xuất Halal.

Cụ thể, ngoài việc nguyên liệu , phụ gia, hóa chất… phải là Halal thì trên cùng một dây chuyền không được sản xuất lẫn lộn sản phẩm Halal và sản phẩm khác. Việc đạt các yêu cầu vệ sinh và quản lý chất lượng sản phẩm HACCP, ISO 22000… là lợi thế.

Bà Hằng lưu ý, doanh nghiệp cần lựa chọn sản phẩm tham gia chứng nhận, địa điểm nhà máy và chương trình chứng nhận phù hợp với nhu cầu của mình.

Trong quá trình đánh giá Halal, cơ quan đánh giá sẽ tiến hành truy xuất nguyên liệu và tất cả thành phần có trong quá trình sản xuất, cho nên lưu ý doanh nghiệp cần phải rất kỹ trong khâu này. Sau khi được cấp chứng nhận, doanh nghiệp cũng cần phải lưu ý khi ra sản phẩm mới, thay đổi nguyên liệu… phải đảm bảo tính toàn vẹn Halal trong quá trình sản xuất.

Các chuyên gia cho rằng, vấn đề hiện nay của doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Tp. Hồ Chí Minh nói riêng khi tiếp cận thị trường Trung Đông là thiếu thông tin, những rào cản về logistics và thanh toán quốc tế.

Do đó cần đẩy mạnh các hoạt động khảo sát thị trường, kết nối giao thương và gặp gỡ các hệ thống kênh phân phối hiện đại tại khu vực Trung Đông, đặc biệt là hai thị trường xuất khẩu mạnh của Việt Nam hiện nay là Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất và Kuwait./.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục