Thiếu tướng Nguyễn Viết Lượng: Nên bãi bỏ bản quyền vaccine cho đối tác có khả năng
Đề xuất bãi bỏ tạm thời bản quyền vaccine phòng COVID-19 được kỳ vọng sẽ mang lại nhiều lợi ích cho cuộc chiến chống COVID-19 trên toàn thế giới nhưng cũng đặt ra nhiều vấn đề gây tranh cãi.
Xung quanh chủ đề này, phóng viên TTXVN đã có cuộc phỏng vấn độc quyền với Thiếu tướng – PGS. TS. Nguyễn Viết Lượng, Chính uỷ Học viện Quân Y, một trong những đơn vị đang tham gia nghiên cứu thử nghiệm vaccine phòng COVID-19.
Phóng viên: Xin ông khái quát về tình hình sản xuất vaccine phòng COVID-19 trên thế giới và khả năng đáp ứng nhu cầu vaccine phòng COVID-19 hiện nay?Thiếu tướng Nguyễn Viết Lượng: Như chúng ta đã biết, vaccine có tầm quan trọng đặc biệt như một thứ vũ khí then chốt để chấm dứt “cuộc chiến” chống lại đại dịch COVID-19.Vì vậy, ngay từ khi đại dịch COVID-19 xảy ra, rất nhiều quốc gia đã bắt tay vào nghiên cứu, thử nghiệm sản xuất vaccine.
Cho đến nay, thế giới đã có hơn 10 loại vaccine được đưa vào sử dụng, trong đó có những loại được cấp phép chính thức, có những loại được cấp phép khẩn cấp.
Đặc biệt, những nước như Mỹ, Anh, một số nước EU, Ấn Độ, Trung Quốc, Nga là những quốc gia đang có lượng vaccine sản xuất với số lượng khá lớn. Bên cạnh đó còn có những nước đang phát triển trong đó có Việt Nam cũng đang tiến hành nghiên cứu, thử nghiệm để tiến tới sản xuất vaccine. Mặc dầu hiện nay thế giới đã sản xuất ra một lượng khá lớn nhưng với hơn 7 tỷ người trên hành tinh, để đạt được miễn dịch cộng đồng trên toàn thế giới thì lượng vaccine hiện tại chưa thể đáp ứng ngay. Đây là vấn đề rất khó khăn, thậm chí phải mất một vài năm nữa.Phóng viên: Ấn Độ và Nam Phi đã đề xuất xóa bỏ tạm thời bản quyền vaccine COVID-19 và đề xuất này được người đứng đầu Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Mỹ và Trung Quốc ủng hộ. Vậy theo ông, đề xuất này sẽ mang lại lợi ích gì nếu được thông qua? Thiếu tướng Nguyễn Viết Lượng: Đề xuất của Ấn Độ và Nam Phi về bãi bỏ bản quyền vaccine được nhiều quốc gia chưa có vaccine hoặc có khả năng sản xuất vaccine rất đồng tình.Những nước ủng hộ thì cho rằng việc bãi bỏ bản quyền vaccine sẽ giúp đẩy nhanh quá trình sản xuất vaccine, giúp cung cấp cho thế giới một lượng vaccine đủ lớn để có thể nhanh chóng đưa thế giới đạt được miễn dịch cộng đồng.
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia, nhiều chính phủ cũng như đại diện các hãng sản xuất vaccine lớn không đồng ý với quan điểm như vậy, bởi hai lý do. Thứ nhất, bản quyền sản xuất vaccine gắn liền với lợi nhuận.Thực tế là các hãng sản xuất vaccine đã đầu tư rất lớn cho nghiên cứu, phát triển công nghệ vaccine trong khi đây lại là một dạng đầu tư rủi ro.
Vì vậy, nếu bãi bỏ bản quyền vaccine thì có thể sau này sẽ không khuyến khích được các hãng công nghệ, các nhà khoa học nghiên cứu ra những dược phẩm hay vaccine nữa.
Thứ hai, để sản xuất ra vaccine đảm bảo các tiêu chuẩn ngặt nghèo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thì không chỉ là vấn đề bản quyền mà còn phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, công nghệ, nhân lực và kinh nghiệm sản xuất.Thực tế là trên thế giới, số quốc gia có năng lực sản xuất vaccine, còn được gọi là quốc gia vaccine, không có nhiều. Vì vậy, khi bản quyền vaccine được bãi bỏ thì chưa chắc những nơi tiếp nhận bản quyền đó đã có thể sản xuất được vaccine.
Thêm vào đó, vaccine được sản xuất ra từ các nguyên liệu, sinh phẩm đặc thù và nguồn nguyên liệu đó cũng có hạn. Hiện tại, Mỹ là quốc gia cung cấp chủ yếu nguồn nguyên liệu sản xuất vaccine.Nếu bãi bỏ bản quyền vaccine thì nhiều nước sẽ lao vào sản xuất vaccine nhưng nguồn cung nguyên liệu, sinh phẩm có đáp ứng được đủ cho sản xuất vaccine hay không lại là câu chuyện cần tính đến…
Tóm lại, bãi bỏ bản quyền vaccine sẽ mở ra cơ hội, đặc biệt cho các quốc gia có năng lực thật sự về sản xuất vaccine.Nếu công suất hiện nay của các tập đoàn sản xuất vaccine bị quá tải thì việc nhường bản quyền cho những trung tâm sản xuất khác có đủ năng lực là rất cần thiết để nhanh chóng đưa ra thị trường một lượng vaccine đủ lớn để đẩy nhanh tiến độ đạt được miễn dịch cộng đồng.
Phóng viên: Việt Nam là một trong số rất ít các quốc gia trên thế giới được WHO công nhận có đủ năng lực về công nghệ, kỹ thuật, sản xuất, nhân lực và nguyên liệu để bào chế vaccine. Vậy đâu là cơ hội cho Việt Nam nếu đề xuất bãi bỏ bản quyền vaccine được thông qua?Thiếu tướng Nguyễn Viết Lượng: Ngay từ khi dịch COVID-19 xâm nhập vào Việt Nam, Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Y tế cùng với các đơn vị đã đặt vấn đề là phải nghiên cứu sản xuất trong nước vaccine phòng COVID-19.Cho đến nay, Việt Nam có 4 loại vaccine được tiến hành nghiên cứu, đánh giá, thử nghiệm. Việc nghiên cứu này được giao cho 4 đơn vị, trong đó vaccine NanoCovax của Công ty cổ phần Công nghệ sinh học dược Nanogen, là vaccine đang có tiềm năng nhất và khả thi nhất để có thể đưa ra thị trường trong thời gian sớm nhất.
Học viện Quân y là đơn vị được Bộ Quốc phòng, Bộ KH và CN, Bộ Y tế giao nhiệm vụ đánh giá thử nghiệm lâm sàng vaccine NanoCovax. Hiện chúng tôi đã hoàn thành hai giai đoạn đánh giá.Giai đoạn đầu tiên mục tiêu chính là đánh giá độ an toàn, bởi vì vaccine là sinh phẩm có thể gây nên những dị ứng hoặc thậm chí là sốc phản vệ. Chính vì vậy, khi tiêm vào cơ thể thì độ an toàn phải được đặt lên hàng đầu.
Sau giai đoạn đầu tiên, Học viện Quân y và các cơ quan chức năng đã có những đánh giá NanoCovax là vaccine an toàn trên những người tình nguyện tiêm thử nghiệm.Giai đoạn hai tiếp tục đánh giá độ an toàn, tính hiệu quả, đồng thời nghiên cứu về liều tối ưu.Hiện nay, chúng tôi đã nghiên cứu trên ba liều: 25 mcg, 50 mcg và 75 mcg.Thử nghiệm trong giai đoạn 1 và giai đoạn 2 cho thấy cả ba liều này đều có khả năng sinh kháng thể và khả năng trung hòa virus tương tự nhau nên trong đề cương thử nghiệm giai đoạn 3, Công ty Nanogen và Hội đồng đạo đức của Bộ Y tế quyết định sẽ sử dụng liều thấp nhất là 25 mcg.Như vậy vaccine vẫn đạt được hiệu quả sinh kháng thể mà lại giúp tiết kiệm được nguyên liệu. Hiện Bộ Y tế đã thông qua đề cương nghiên cứu giai đoạn 3 để có thể bắt đầu thử nghiệm trong nửa đầu tháng Sáu.
Quay trở lại câu chuyện là bãi bỏ bản quyền vaccine thì rõ ràng, nếu Việt Nam có được bản quyền những vaccine nước ngoài đã được cấp phép để sản xuất trong nước thì sẽ rút ngắn được thời gian đưa vaccine ra thị trường so với các vaccine mà Việt Nam mới bắt đầu nghiên cứu hoặc đánh giá thử nghiệm ở giai đoạn đầu.
Theo tôi, Việt Nam sẽ là một trong những quốc gia có thể đáp ứng được yêu cầu về sản xuất vaccine nếu như có bản quyền. Đây cũng là một cơ hội cho chúng ta để sớm đạt được miễn dịch cộng đồng, thậm chí tương lai chúng ta có thể xuất khẩu vaccine để xuất khẩu.Phóng viên: Như ông đã nói, cũng như chia sẻ của nhiều chuyên gia, sản xuất vaccine không giống như các dược phẩm thông thường khác mà đòi hỏi một quy trình công nghệ và năng lực sản xuất đặc biệt không phải đối tác nào cũng có thể đáp ứng được. Ông có thể chia sẻ cụ thể hơn quan điểm cá nhân của ông về vấn đề này như thế nào? Thiếu tướng Nguyễn Viết Lượng: Rõ ràng việc bỏ bản quyền vaccine có những điểm tích cực nhưng cũng có những điểm cần bàn luận.Theo quan điểm của tôi, không phải đối tác nào cũng có thể sản xuất được vaccine thành phẩm. Sản xuất vaccine đòi hỏi phải có cái dây chuyền công nghệ đạt chuẩn, môi trường đạt chuẩn, đặc biệt là nhân lực, kinh nghiệm… rất nhiều yếu tố chứ không phải chỉ cần công thức là được.
Tiếp nữa là vấn đề nguyên liệu. Chúng ta biết nguyên liệu sản xuất vaccine rất đặc thù, không phải quốc gia nào cũng có thể tạo ra được. Nó phụ thuộc vào một số quốc gia, một số hãng công nghệ sinh học. Vì vậy, ngay cả khi được trao bản quyền công nghệ, có công nghệ mà không có nguyên liệu thì cũng không tạo ra được vaccine.Vì vậy, song song với vấn đề bản quyền thì việc bảo đảm được nguyên liệu, sinh phẩm cũng là một vấn đề then chốt.Nhiều nhà khoa học e ngại, khi bản quyền được bãi bỏ thì rất nhiều quốc gia, nhiều tập đoàn nghĩ rằng có thể sản xuất được vaccine nên sẽ đẩy mạnh thu mua nguyên liệu. Điều này sẽ làm nguyên liệu trở nên khan hiếm và khiến những nhà sản xuất vaccine có năng lực thật sự lại gặp khó khăn vì thiếu nguyên liệu.
Với tất cả những lý do này tôi cho rằng, việc bãi bỏ bản quyền vaccine là cần thiết nhưng chỉ nên tập trung lựa chọn những đối tác thật sự có khả năng sản xuất vaccine. Điều này đòi hỏi WHO cũng như các quốc gia và tập đoàn có bản quyền vaccine phải có đánh giá cụ thể để đảm bảo lợi ích chung của nhân loại.Đây là cuộc chiến chung của toàn thế giới và tôi cho rằng sự chia sẻ phải thật sự vì lợi ích chung của cộng đồng thế giới, của cả loài người chứ không phải vì lợi ích của những tập đoàn, của những quốc gia nào đó. Phóng viên: Thưa ông, có những ý kiến cho rằng thay vì bãi bỏ bản quyền vaccine COVID-19 thì nên tập trung năng lực sản xuất cho các đối tác có khả năng thực sự để nhanh chóng tạo thêm nguồn cung vaccine rồi xuất khẩu sang các nước, trên cơ sở chia sẻ nhiều hơn giữa các nước giàu nước nghèo. Vậy quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào? Thiếu tướng Nguyễn Viết Lượng: Tôi hoàn toàn nhất trí với quan điểm đó. Chúng ta đã biết sản xuất ra vaccine không phải là một cậu chuyện dễ dàng. Vì vậy, chọn những đối tác thật sự có năng lực, có uy tín, có kinh nghiệm để sản xuất ra vaccine và nhanh chóng đưa ra thị trường với khối lượng lớn mới là giải pháp đúng đắn, nếu không việc sản xuất vaccine sẽ bị hạn chế, thậm chí ảnh hưởng đến chất lượng.Các quốc gia, đặc biệt là những quốc gia phát triển, đang nắm giữ phần lớn công nghệ cũng như nguyên liệu phải sẵn sàng chia sẻ với các quốc gia nghèo, những quốc gia đang phát triển hoặc kém phát triển. Có như vậy chúng ta mới nhanh chóng đẩy lùi được đại dịch trên toàn thế giới.Tổ chức G7 trước đây đặt ra mục tiêu đạt được miễn dịch cộng đồng trên toàn thế giới vào năm 2024-2025. Nhưng gần đây, Thủ tướng Anh đã có một đề xuất táo bạo, nếu như thế giới ngồi lại với nhau, cùng đồng thuận thì có thể đẩy sớm thời điểm đạt miễn dịch cộng đồng lên cuối năm 2022. Đấy là một mục tiêu rất lớn, một kỳ vọng rất lớn nhưng tôi tin rằng, nếu như thế giới cùng nỗ lực và đồng thuận thì mục đó có thể đạt được. Phóng viên: Song song với việc nghiên cứu và phát triển vaccine phòng COVID-19, Việt Nam đang tìm nhiều nguồn để có thể mua hoặc chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine. Vậy ông có thể chia sẻ sâu hơn về các giải pháp mà Việt Nam đang triển khai để đáp ứng nhu cầu vaccine phòng COVID-19?Thiếu tướng Nguyễn Viết Lượng: Việt Nam là một quốc gia có khả năng, có năng lực sản xuất vaccine và đồng thời cũng đang tiến hành nghiên cứu và thử nghiệm, đánh giá những vaccine của chính mình, trong đó NanoCovax là một trong những vaccine có thể sớm được cấp phép khẩn cấp để sử dụng đại trà, giống như Nga, Ấn Độ và Trung Quốc đã làm. Theo tôi biết, năng lực sản xuất của Công ty Nanogen có thể đạt từ 2-3 triệu liều/tháng. Đó cũng là một phần rất quan trọng để góp phần thêm nguồn cung vaccine ở Việt Nam.Bên cạnh đó, chiến lược của Chính phủ và Bộ Y tế hiện nay hết sức chính xác, hết sức đúng đắn. Đó là vẫn phải gia tăng tìm kiếm để nhập các vaccine đã được cấp phép từ nước ngoài để nhanh chóng có một lượng vaccine đủ lớn.
Ngoài ra, những doanh nghiệp mạnh, những đơn vị có năng lực sản xuất vaccine, nếu như có bản quyền thì cũng nhanh chóng sản xuất vaccine. Tôi cho rằng nếu phối hợp được cả ba nguồn vaccine gồm nhập khẩu, sản xuất dựa trên bản quyền, và tự nghiên cứu sản xuất như vậy, Việt Nam có thể sớm đạt được miễn dịch cộng đồng vào cuối năm 2021 hoặc là giữa năm 2022.
Tuy nhiên, tôi cho rằng, câu chuyện vaccine COVID-19 không chỉ là câu chuyện trước mắt mà phải là câu chuyện lâu dài. Bởi vì, các nhà khoa học thế giới đều cho rằng khả năng duy trì kháng thể của vaccine chỉ tối đa là 1 năm, nên vaccine phòng COVID-19 nhiều khả năng sẽ cần phải được tiêm nhắc lại hàng năm.Như vậy, rõ ràng là một quốc gia với gần 100 triệu dân như Việt Nam sẽ cần lượng vaccine rất lớn. Vì vậy, việc nghiên cứu và sản xuất vaccine trong nước vẫn sẽ là trụ cột về lâu dài.
Vaccine không chỉ là câu chuyện chống dịch, không chỉ là câu chuyện kinh tế mà còn là câu chuyện chính trị. Một quốc gia nếu có khả năng nghiên cứu và sản xuất vaccine thì chắc chắn uy tín, vị thế, tầm ảnh hưởng sẽ khác với những quốc gia khác. Và Việt Nam may mắn là một quốc gia như vậy!
Phóng viên: Xin cảm ơn ông!>>Vụ Việt Á: Xem xét vi phạm của Đảng ủy Học viện Quân y
Tin liên quan
-
Kinh tế Thế giới
Dịch COVID-19: EP ủng hộ từ bỏ quyền sở hữu trí tuệ đối với vaccine
07:57' - 21/05/2021
Theo EC, các nước có thể cấp giấy phép cho các nhà sản xuất vaccine bất kể có hay không có sự đồng ý của chủ sở hữu bằng sáng chế.
-
Kinh tế Thế giới
EU trì hoãn quyết định về từ bỏ quyền sở hữu trí tuệ với vaccine ngừa COVID-19
11:11' - 09/05/2021
Các nhà lãnh đạo của các nước thuộc EU xác định có "nhiều vấn đề cấp bách" hơn là việc từ bỏ quyền sở hữu trí tuệ đối với vaccine ngừa COVID-19.
-
Ý kiến và Bình luận
Cộng đồng quốc tế ủng hộ đề xuất bỏ bản quyền vaccine COVID-19
12:44' - 07/05/2021
Đề xuất bỏ bản quyền các loại vaccine ngừa COVID-19 của Mỹ đã nhận được sự ủng hộ ngày càng gia tăng từ cộng đồng quốc tế, trong bối cảnh tình hình dịch bệnh ở Ấn Độ đang diễn biến hết sức phức tạp.
-
Ý kiến và Bình luận
CEO BioNTech phản đối ý tưởng bỏ quyền sở hữu trí tuệ đối với vaccine ngừa COVID-19
19:06' - 29/04/2021
CEO BioNTech cho rằng từ bỏ quyền sở hữu trí tuệ không phải là cách đúng đắn để đẩy mạnh sản xuất vaccine ngừa COVID-19.
-
Kinh tế & Xã hội
Gần 1 triệu người ký kiến nghị WTO hủy bỏ bản quyền vaccine và thuốc điều trị COVID-19
14:59' - 10/12/2020
Ngày 9/12, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cho biết đã nhận một bản kiến nghị trực tuyến với 900.000 chữ ký kêu gọi hủy bỏ bản quyền vaccine phòng dịch COVID-19 cũng như thuốc điều trị bệnh này.
Tin cùng chuyên mục
-
Kinh tế Việt Nam
Nhiều dự án giao thông nghìn tỷ ở Cần Thơ vướng mặt bằng
21:30' - 14/10/2025
Chiều 14/10, tại phiên họp UBND TP Cần Thơ, công tác giải phóng mặt bằng được xác định là nguyên nhân chính khiến tiến độ giải ngân vốn đầu tư công chậm, nhiều dự án trọng điểm đình trệ.
-
Kinh tế Việt Nam
EVNNPT ký hợp đồng vay 715 tỷ đồng cho dự án 220kV Than Uyên – 500kV Lào Cai
21:21' - 14/10/2025
Ngày 14/10, EVNNPT và VDB Sở Giao dịch I ký hợp đồng tín dụng đầu tư trị giá 715 tỷ đồng cho dự án đường dây 220kV Than Uyên – 500kV Lào Cai, góp phần tăng cường năng lực truyền tải điện quốc gia.
-
Kinh tế Việt Nam
Cần Thơ quyết liệt tháo gỡ “nút thắt” để đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công
21:13' - 14/10/2025
Chiều 14/10, UBND TP Cần Thơ họp trực tuyến bàn giải pháp tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công. Hiện tỷ lệ giải ngân mới đạt 34,5% kế hoạch, thấp hơn mức bình quân cả nước.
-
Kinh tế Việt Nam
Tổng Bí thư Tô Lâm gặp mặt nông dân xuất sắc và nhà khoa học của nhà nông
20:33' - 14/10/2025
Nhân dịp kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam, chiều 14/10, Tổng Bí thư Tô Lâm gặp mặt, chúc mừng, biểu dương 95 Nông dân xuất sắc, Nhà khoa học của nhà nông có nhiều đóng góp nổi bật.
-
Kinh tế Việt Nam
Thủ tướng kiểm tra công tác hành chính, chuyển đổi số tại xã biên giới Thanh Hóa
20:05' - 14/10/2025
Chiều 14/10, Thủ tướng Phạm Minh Chính kiểm tra công tác giải quyết thủ tục hành chính và vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp tại xã biên giới Bát Mọt, tỉnh Thanh Hóa.
-
Kinh tế Việt Nam
Thủ tướng dự khởi công trường học tại xã biên giới Bạt Mọt, tỉnh Thanh Hoá
18:56' - 14/10/2025
Chiều 14/10, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự Lễ khởi công xây dựng Trường nội trú liên cấp Tiểu học và Trung học cơ sở Bát Mọt, xã miền núi biên giới Bát Mọt, tỉnh Thanh Hoá.
-
Kinh tế Việt Nam
Việt Nam đứng trước “cơ hội vàng” trong đào tạo nhân lực bán dẫn
18:53' - 14/10/2025
Việt Nam, với tham vọng trở thành điểm đến mới trong chuỗi cung ứng bán dẫn châu Á, đang chứng kiến những bước đi đầu tiên trong việc hình thành hệ sinh thái nhân lực công nghệ cao cho kỷ nguyên số.
-
Kinh tế Việt Nam
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thảo luận sửa đổi Luật Địa chất và khoáng sản
17:47' - 14/10/2025
Tiếp tục chương trình Phiên họp thứ 50, chiều 14/10, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Địa chất và khoáng sản.
-
Kinh tế Việt Nam
TP Hồ Chí Minh cần huy động 1 triệu tỷ đồng mỗi năm cho mục tiêu đô thị toàn cầu
17:46' - 14/10/2025
TP. Hồ Chí Minh đặt mục tiêu trở thành đô thị toàn cầu, trung tâm tài chính và đổi mới sáng tạo hàng đầu khu vực, cần huy động khoảng 1 triệu tỷ đồng vốn đầu tư mỗi năm giai đoạn 2025–2030.