Chọn tạo giống sắn kháng bệnh khảm lá bằng công nghệ phân tử

14:34' - 02/10/2025
BNEWS Sự xuất hiện của virus khảm lá sắn tại Việt Nam năm 2017 đã tạo ra thách thức chưa từng có đối với người trồng sắn.

Ngày 2/10, tại phường Tân Ninh, tỉnh Tây Ninh, Viện Di truyền Nông nghiệp (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam) tổ chức Hội thảo khoa học “Đột phá trong chọn tạo giống sắn kháng bệnh khảm lá bằng công nghệ phân tử" .

Hội thảo nhằm trao đổi thông tin, giới thiệu kết quả Dự án nghiên cứu ứng dụng chỉ thị phân tử trong phát triển giống sắn có khả năng kháng bệnh khảm lá, kiểu hình thân thẳng, hàm lượng tinh bột ổn định và năng suất cao – hướng đi mới góp phần nâng cao giá trị, hiệu quả sản xuất cây sắn ở Việt Nam. Dự án được tài trợ bởi Quỹ Thiện Tâm – Tập đoàn Vingroup.

GS. TS. Lê Huy Hàm, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp Việt Nam – Chủ nhiệm dự án cho biết: Mục tiêu của dự án là phát triển được các bộ chỉ thị phân tử có độ tin cậy cao liên quan đến ba tính trạng bao gồm: tính kháng bệnh khảm lá, hàm lượng chất khô và kiểu hình.

Dữ liệu liên quan đến quá trình phát triển các bộ chỉ thị phân tử được quản lý trên nguồn mở và chia sẻ rộng rãi với các nhà tạo giống và nghiên cứu sắn; chọn tạo được ít nhất 3 giống sắn kháng bệnh khảm lá có năng suất tinh bột cao hơn 10% so với giống đối chứng phù hợp với 4 vùng sinh thái; ít nhất 10 ha giống sắn mới được chia sẻ cho các bên liên quan tại 4 vùng sinh thái vào cuối năm 2027 và từ 350 - 400 ha được nhân rộng và phổ biến cho người trồng sắn ở các địa phương vào vụ trồng năm 2028-2029; kết quả nghiên cứu được công bố trên ít nhất 5 tạp chí khoa học có uy tín trong nước và quốc tế.

Cũng theo GS. TS. Lê Huy Hàm, sự xuất hiện của virus khảm lá sắn tại Việt Nam năm 2017 đã tạo ra thách thức chưa từng có. Trước tình hình khẩn cấp, nhiều giống sắn kháng bệnh được nhập nội, thử nghiệm và bước đầu phát huy tác dụng, dù còn hạn chế về khả năng thích nghi. Thực tiễn canh tác trong nước với yêu cầu về năng suất, hàm lượng tinh bột cao, khả năng chống chịu sâu bệnh đặc thù đã đặt ra nhiệm vụ cấp thiết phải chọn tạo những giống sắn mới, phù hợp hơn. Đây cũng chính là định hướng trọng tâm của dự án hiện nay.

Thời gian thực hiện dự án từ tháng 1/2023 đến tháng 12/2027. Sau hơn 2 năm rưỡi triển khai, dự án nghiên cứu phát triển giống sắn kháng bệnh khảm lá bằng công nghệ phân tử đã đạt nhiều kết quả bước đầu quan trọng. Hội thảo giữa kỳ được tổ chức là dịp để nhìn lại chặng đường đã qua, đánh giá kết quả đạt được và xác định những bước đi tiếp theo nhằm hoàn thành mục tiêu trong hơn 2 năm còn lại.

Ông Nguyễn Đình Xuân - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Tây Ninh thông tin, tỉnh hiện được xem là “thủ phủ cây sắn” của cả nước  với diện tích trồng khoảng 59.000 đến 63.000 ha (đứng thứ 2 cả nước), năng suất ước đạt 33,3 tấn/ha; sản xuất tập trung tại các xã: Tân Phú, Tân Hội, Tân Đông, Tân Lập, Thạnh Bình, Cầu Khởi, Phước Vinh, được trồng và thu hoạch hầu như quanh năm nhưng tập trung vào 2 vụ chính là vụ Đông Xuân và Hè Thu. Trên địa bàn có 18 công ty, doanh nghiệp sản xuất tinh bột sắn với công suất từ 50 - 300 tấn/ngày; 47 cơ sở với dưới 50 tấn/ngày. Trong 9 tháng của năm 2025, diện tích khoai sắn tại Tây Ninh đã xuống giống được 46.772 ha, bằng 74,0% so với kế hoạch.

Bên cạnh vị thế nổi bật, ngành sắn Tây Ninh đang đối diện với thách thức lớn từ dịch bệnh virus khảm lá Sri Lanka trong khoảng 5 năm qua. Dịch bệnh này từng làm giảm ít nhất 30% năng suất tại nhiều cánh đồng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống hàng chục nghìn hộ dân.

Trước tình hình đó, tỉnh đã phối hợp chặt chẽ với nông dân, nhà khoa học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp để triển khai nhiều giải pháp thích nghi. Nông dân đã áp dụng các biện pháp như chọn giống ít mẫn cảm với bệnh, tăng mật độ trồng để bù năng suất và tăng cường bón phân nhằm duy trì sản lượng, dù làm gia tăng chi phí sản xuất.

TS. Đinh Công Chính - đại diện Cục Trồng trọt và bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đánh giá cao ý nghĩa khoa học và thực tiễn của hội thảo khoa học này. Đây không chỉ là diễn đàn để các nhà khoa học, doanh nghiệp và địa phương chia sẻ kết quả nghiên cứu, mà còn góp phần khẳng định vai trò của công nghệ sinh học, đặc biệt là chỉ thị phân tử, trong công tác chọn tạo giống sắn kháng bệnh.

TS. Đinh Công Chính cho biết, hiện nay sắn là cây lương thực có diện tích lớn thứ ba tại Việt Nam, sau lúa và ngô, với khoảng 530.000–560.000 ha mỗi năm. Từ một cây lương thực phục vụ xóa đói giảm nghèo, sắn đã trở thành cây làm giàu, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến; trong đó có nhiên liệu sinh học. Sắn cũng thuộc nhóm sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc gia.

Dù giữ vai trò quan trọng, ngành hàng sắn vẫn bộc lộ nhiều hạn chế như: tính bền vững chưa cao, liên kết giữa nông dân và nhà máy chế biến còn lỏng lẻo; dịch bệnh khảm lá sắn do virus gây thiệt hại nặng nề, có nơi lên tới 74,5%. Thành công của dự án sẽ góp phần bảo vệ sinh kế cho hàng triệu nông dân, bảo đảm nguồn nguyên liệu ổn định cho các nhà máy chế biến, tăng sức cạnh tranh của ngành sắn Việt Nam trên thị trường quốc tế. Đây cũng là minh chứng cho sự phối hợp hiệu quả giữa nhà khoa học, doanh nghiệp, địa phương và các tổ chức xã hội trong phát triển nông nghiệp bền vững.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục