Đề xuất Chính phủ xem xét thực hiện chính sách tài khóa nghịch chu kỳ để thúc đẩy tổng cầu

21:54' - 02/11/2023
BNEWS Trong bối cảnh suy giảm đơn hàng, khó huy động vốn qua trái phiếu, cổ phiếu, khó tiếp cận vốn vay ngân hàng, dòng tiền trở thành vấn đề cấp thiết nhất của doanh nghiệp.

Dòng tiền là một trong những nỗi lo lớn của doanh nghiệp hiện nay. Sau 2 năm COVID-19, sử dụng hết nguồn vốn tích lũy, sang năm 2023, đối mặt với khủng hoảng về đơn hàng, khó vay vốn…, nhiều doanh nghiệp rơi vào cảnh suy kiệt dòng tiền.

*Suy kiệt dòng tiền

Ngày 2/11, báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình doanh nghiệp dịp cuối năm, Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV, thuộc Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ) cho biết, qua phân tích sơ bộ báo cáo tài chính của 1.579 doanh nghiệp niêm yết trên 3 sàn giao dịch chứng khoán ở Việt Nam (chia thành 10 ngành cụ thể) trong thời gian từ 2018 đến 6 tháng đầu năm 2023 cho thấy, doanh thu các ngành giảm từ giữa năm 2022 đến nay, nghiêm trọng nhất là hai ngành bất động sản và xây dựng. Đến hết quý II/2023, tình hình vẫn chưa được cải thiện.

Doanh thu 6 tháng đầu năm 2023 của 8/10 ngành đều thấp hơn cùng kỳ năm 2022, chỉ có ngành công nghệ thông tin là tăng quy mô, ngành hàng và dịch vụ tiêu dùng giữ nguyên quy mô doanh thu so với cùng kỳ. Mặc dù trong các tháng nửa cuối năm 2023, số liệu vĩ mô và kim ngạch xuất nhập khẩu ở một số ngành cụ thể đã có những điểm sáng và sự cải thiện so với giai đoạn trước đó nhưng dòng tiền vẫn là vấn đề lớn nhất các doanh nghiệp phải đối mặt.

Theo bà Phạm Thị Ngọc Thủy, Giám đốc Văn phòng Ban IV, dù đã niêm yết nhưng doanh nghiệp Việt vẫn có đặc trưng là vốn chủ sở hữu mỏng, các hoạt động dựa nhiều trên vốn vay. Do đó, khi huy động vốn gặp khó khăn, doanh nghiệp sẽ khó khăn ngay lập tức. Trong bối cảnh suy giảm đơn hàng, khó huy động vốn qua trái phiếu, cổ phiếu, khó tiếp cận vốn vay ngân hàng, dòng tiền trở thành vấn đề cấp thiết nhất của doanh nghiệp.

Ngành nào có tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu lớn thì càng gặp khó khăn (xây dựng 1,14 lần; hàng và dịch vụ tiêu dùng 0,78 lần; bất động sản và vật liệu xây dựng 0,62 lần).

“Năm 2022, ngành Xây dựng có tỷ lệ chi phí lãi vay so với lợi nhuận cao nhất, lên đến 375%, tiếp đó là hàng và dịch vụ tiêu dùng 44,8%, bất động sản 40,2%. Điều này hàm ý, khi kinh doanh, doanh nghiệp chịu rủi ro chính nhưng thành quả được hưởng không nhiều, bị xói mòn do chi phí tài chính nên không có tích lũy để tái đầu tư”, bà Thủy nói.

Liên quan đến chi phí thuế, 1/4 nhóm doanh nghiệp có quy mô nhỏ nhất 3 sàn có áp lực lớn nhất. Năm 2020, tỷ lệ chi phí thuế/lợi nhuận sau thuế lên đến 51,5%. Năm 2022, đa số doanh nghiệp nhóm này đều lỗ.

Doanh nghiệp xây dựng và bất động sản gặp vấn đề lớn nhất về dòng tiền khi số ngày phải thu và số ngày tồn kho tăng lên nhiều lần. Số ngày phải thu trung bình của doanh nghiệp xây dựng quý I/2022 là 463 ngày, sang quý I/2023 lên đến 1.165 ngày.

Dù hết quý II/2023 giảm xuống còn 598 ngày nhưng cũng tạo áp lực dòng tiền. Bên cạnh đó, số ngày tồn kho trung bình quý I/2023 lên đến 4.527 ngày, so với 661 ngày của quý I/2022. Số ngày tồn kho trung bình của doanh nghiệp bất động sản quý I/2023 cũng lên đến 5.662 ngày, cá biệt có doanh nghiệp có số ngày tồn kho lên đến 54.334 ngày và với tình hình bán hàng như hiện tại, ước tính doanh nghiệp phải mất 149 năm mới bán hết giỏ hàng.

 

*Hỗ trợ tiếp cận vốn, giảm chi phí

Đưa ra một số kiến nghị, Ban IV cho rằng, trong những tháng nửa cuối năm, Chính phủ đã thực hiện tương đối hiệu quả việc đẩy mạnh đầu tư công, tập trung vào các cơ sở hạ tầng lớn, tạo những tín hiệu rất tích cực tới doanh nghiệp và tổng thể nền kinh tế. Áp dụng kịp thời một số giải pháp giãn/giảm áp lực thuế và chi phí khác, tạo dòng tiền ngắn hạn cho doanh nghiệp như giảm thuế VAT, giảm tiền thuê đất…

Đây cũng là các nội dung doanh nghiệp, hiệp hội đề xuất Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh ở các tháng cuối năm 2023 và nửa đầu năm 2024, hoặc cả năm 2024 tùy độ trễ của từng chính sách để tạo đà cho doanh nghiệp phục hồi.

Trong cơ cấu chi phí của doanh nghiệp, chi phí vận hành là trách nhiệm của doanh nghiệp và để cứu mình, nhiều doanh nghiệp đã phải chủ động cắt giảm chi phí, giảm quy mô hoạt động và quy mô lao động. Các phần chi phí khác như chi phí lãi vay, chi phí thuế-phí, chi phí bảo hiểm xã hội... nằm trong không gian chính sách của Nhà nước và rất cần sự hỗ trợ trọng tâm của Chính phủ để doanh nghiệp có dòng tiền ngắn hạn.

Để thực hiện hiệu quả các biện pháp này, cần có cách tiếp cận vừa tổng thể về hỗ trợ doanh nghiệp đi đôi với bảo đảm kinh tế vĩ mô, vừa phải phân tích bài toán theo từng ngành, lĩnh vực cụ thể.

Ban IV nhận định, sau 4 lần giảm lãi suất điều hành, lãi suất huy động và lãi suất cho vay đều có chiều hướng giảm. Tuy nhiên, trọng tâm chính sách là lãi suất cho vay phải giảm thực sự để hỗ trợ doanh nghiệp, vì lãi suất cho vay hiện tại dù đã giảm, nhưng vẫn còn ở mức cao so với các nước khác; đồng thời, trong bối cảnh phục hồi, các ngân hàng thương mại cần nhìn vào khả năng trả nợ tương lai của doanh nghiệp để tăng cơ hội tiếp cận tín dụng chứ không chỉ nhìn vào tài sản thế chấp.

Bên cạnh đó, cần ưu tiên lãi suất thấp hơn cho các doanh nghiệp xuất khẩu, các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các ngành có nhiều rủi ro cần chấp nhận lãi suất cao hơn. Riêng đối với lĩnh vực bất động sản, hệ thống ngân hàng có thể cân nhắc cho phép các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm thuộc phân khúc phục vụ nhu cầu thiết yếu/ưu tiên (như hạ tầng kĩ thuật và hạ tầng xã hội, khu công nghiệp, văn phòng…) được giãn nợ/giữ nhóm nợ theo tinh thần thông tư 02/2023/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước.

Thông qua phân tích, có thể thấy nội lực doanh nghiệp suy yếu, lại phải đối mặt nhiều khó khăn do tổng cầu giảm nên việc hấp thụ vốn sẽ gặp nhiều khó khăn. Do đó, theo Ban IV, bên cạnh chính sách tiền tệ (đã không còn nhiều dư địa do lãi suất toàn cầu neo ở mức cao và chênh lệch lãi suất sẽ gây áp lực lên tỷ giá), cần xem xét thực hiện chính sách tài khóa nghịch chu kỳ để thúc đẩy tổng cầu, bao gồm đẩy mạnh đầu tư công, tập trung vào các cơ sở hạ tầng lớn, vừa để hỗ trợ các doanh nghiệp ngành xây dựng và vật liệu xây dựng, vừa nâng cao năng lực của quốc gia; chú trọng phát triển nhà ở xã hội để đáp ứng nhu cầu thực của người lao động và hỗ trợ các doanh nghiệp bất động sản.

Cùng với đó, xem xét các giải pháp giãn/giảm áp lực thuế và chi phí khác, tạo dòng tiền ngắn hạn cho doanh nghiệp vì đây là thời điểm phải “khoan thư sức dân”. Theo đó, tiếp tục thực hiện các chính sách giãn chu kỳ đóng thuế theo tinh thần Nghị định số 12/2023/NĐ-CP về gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất năm 2023; giảm thuế VAT theo Nghị quyết số 101/2013/QH15 để giảm bớt khó khăn dòng tiền, đồng thời kích cầu tiêu dùng trong nước…

Một số vấn đề quan trọng khác có ảnh hưởng tới chi phí của nhiều doanh nghiệp cũng cần Chính phủ quan tâm chỉ đạo như: Không ban hành các quy định làm phát sinh các loại phí, chi phí mới cho doanh nghiệp ít nhất trong nửa cuối năm 2023 và có thể cả nửa đầu năm 2024. Trong giai đoạn từ đầu năm 2024, với các quy định có thể làm phát sinh chi phí của doanh nghiệp, cần đánh giá thấu đáo, toàn diện các tác động trước khi hiện thực hóa.

Đối với khoản thu “Kinh phí Công đoàn” đang chiếm 2% so với quỹ lương doanh nghiệp trả cho người lao động (trong đó người lao động phải đóng góp 1% còn doanh nghiệp đóng 1%), Ban IV đề xuất Chính phủ đề nghị Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam xem xét sửa Quy chế tài chính nội bộ cho phép doanh nghiệp giữ lại toàn bộ 2% này trong ít nhất 2 năm tới để tập trung chi trực tiếp cho người lao động; các năm tiếp theo cũng giảm dần mức đóng góp cho Công đoàn cấp trên thay vì tỉ lệ đóng như hiện nay.

Trong trung hạn, xem xét chưa tăng căn cứ tính đóng bảo hiểm xã hội trong quá trình dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi. Trong dài hạn, cần tiếp tục có những phân tích để thiết kế chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp hiện đại hơn, phù hợp với từng nhóm quy mô doanh thu và ngành nghề doanh nghiệp để vừa đảm bảo mục tiêu tăng thu ngân sách, vừa đảm bảo việc phát triển nội lực doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp nhỏ, vừa có cơ hội vươn mình.

Liên quan đến chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần phát huy thực chất vai trò của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các địa phương để tăng cường các hình thức tín chấp, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn, tham gia thị trường hiệu quả. Mặt khác, cần quan tâm đặc biệt các giải pháp thúc đẩy, hỗ trợ quá trình chuyển đổi xanh cho nhóm chủ thể này vì doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng phải đối diện với các quy định, yêu cầu mới từ thị trường ngay trong năm 2023 và các năm tiếp theo trong bối cảnh nhận thức, năng lực, nguồn lực chuyển đổi đều còn rất hạn chế.

Để giải quyết một cách dài hạn các vấn đề khó khăn của doanh nghiệp, Giám đốc Văn phòng Ban IV cho hay, một trong các giải pháp cần đặc biệt lưu tâm là phát triển thị trường vốn hiện đại, đáp ứng chuẩn mực quốc tế nhằm dẫn vốn hiệu quả cho nền kinh tế, tránh để tăng trưởng quá phụ thuộc vào tín dụng. Điều này đòi hỏi chấn chỉnh thị trường trái phiếu doanh nghiệp bằng việc trả về đúng định nghĩa “nhà đầu tư chuyên nghiệp”, cụ thể, hạn chế tối đa hoặc thậm chí cấm sự tham gia các nhà đầu tư cá nhân thị trường phát hành riêng lẻ như thông lệ quốc tế. Đẩy nhanh tiến độ để nâng hạng thị trường chứng khoán làm kênh dẫn vốn hiệu quả cho nền kinh tế để giải bài toán căn cơ, dài hạn.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục