Gần 83% nguồn vốn trồng và bảo vệ rừng từ xã hội hóa

05:55' - 21/11/2023
BNEWS Giai đoạn 2021 đến nay, nguồn vốn từ ngân sách nhà nước hỗ trợ trồng rừng chiếm khoảng 17,4%, tương ứng với 121.000 ha; còn lại 82,6% là nguồn vốn xã hội hóa.
Tại Toạ đàm “Xã hội hoá trồng rừng – Vì một Việt Nam xanh hơn” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức chiều tối 20/11 tại Hà Nội, ông Trần Quang Bảo - Cục trưởng Cục Lâm nghiệp cho biết, giai đoạn 2021 đến nay, nguồn vốn từ ngân sách nhà nước hỗ trợ trồng rừng chiếm khoảng 17,4%, tương ứng với 121.000 ha; còn lại 82,6% là nguồn vốn xã hội hóa, huy động đầu tư, đóng góp, hỗ trợ từ các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân, tương ứng với 575.000 ha. Nguồn lực huy động xã hội hóa đóng vai trò quan trọng cho các hoạt động trồng và bảo vệ rừng.

Theo ông Trần Quang Bảo, chủ trương xã hội hóa của nhà nước đã khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển rừng như: vốn vay hỗ trợ lãi suất, phát triển hợp tác, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; đa dạng hoá nguồn lực đến từ nguồn quỹ quốc tế và trong nước. Xã hội hoá trồng rừng ngày càng được người dân và các doanh nghiệp, tổ chức quan tâm, hưởng ứng, góp phần thực hiện các chỉ tiêu trồng rừng và phát triển kinh tế lâm nghiệp.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, chương trình, đề án trồng rừng, phục hồi rừng và trồng cây phân tán. Những nỗ lực này đã góp phần nâng tỷ lệ che phủ rừng từ 40,84% năm 2015 lên 42,02% vào năm 2022; duy trì, phát triển hơn 14,7 triệu ha rừng; trong đó có 4,6 triệu ha rừng trồng. Nhờ đó đã tạo ra nguồn nguyên liệu ổn định cho ngành công nghiệp chế biến, xuất khẩu đồ gỗ và lâm sản, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao thu nhập, cải thiện sinh kế cho những người làm nghề rừng, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.

 
Từ 2021 đến nay, cả nước trồng khoảng 696.000 ha rừng trồng tập trung, khoảng 277 triệu cây phân tán. Riêng 10 tháng năm 2023 trồng 198.000 ha rừng trồng tập trung  và 71 triệu cây phân tán. Bên cạnh đó, diện tích rừng trồng sản xuất kinh doanh gỗ lớn là 445.480 ha; chuyển hóa rừng trồng sản xuất kinh doanh gỗ lớn là 63.341 ha; diện tích rừng đã được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững là 449.240 ha.

Để đạt được những kết quả trên, nhiều năm qua, nhà nước đã khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển rừng, thông qua nhiều chính sách quan trọng như giao đất giao rừng, các chính sách đặc thù khuyến khích đầu tư, phát triển hợp tác, liên kết sản xuất, hỗ trợ vốn vay ưu đãi…  Từ đó đã huy động tổng lực, đa dạng các nguồn vốn để thực hiện.

Ông Trần Quang Bảo cũng cho biết, thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng là thành công lớn của ngành lâm nghiệp, huy động hiệu quả, bền vững các nguồn lực xã hội cho quản lý, bảo vệ rừng. Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng thời gian qua cũng đã huy động hiệu quả, với tổng nguồn thu là trên 23.000 tỷ đồng trong giai đoạn từ 2011 – 2022. Các nguồn thu dịch vụ môi trường rừng sẽ tiếp tục được mở rộng trong thời gian tới, trước mắt là dịch vụ carbon rừng, kinh doanh tín chỉ carbon rừng.

Ông Trần Nho Đạt, Phó trưởng phòng Phòng Quản lý rừng Đặc dụng, phòng hộ (Cục Lâm nghiệp) cho biết, nhờ quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, đặc biệt là trồng rừng đến nay, Việt Nam đã tự chủ được trên 70% nguồn nguyên liệu gỗ phục vụ sản xuất chế biến. Trong giai đoạn 2012-2022, trung bình mỗi năm thu tiền dịch vụ môi trường rừng được 1.300 tỷ đồng. Đặc biệt, rừng Việt Nam có nhiều tiềm năng về giảm phát thải khí nhà kính, riêng tín chỉ carbon rừng ở khu vực Bắc Trung Bộ hiện đã thu được 51,5 triệu USD, Tây Nguyên đang đàm phán về tín chỉ carbon.

Tuy nhiên, thách thức trong xã hội hóa trồng rừng là: hạn chế về đất đai và cơ sở hạ tầng; cơ chế và chính sách chưa đủ mạnh bởi khó tiếp cận được nguồn vốn vay, chưa có bảo hiểm rừng trồng, mức hỗ trợ bảo vệ và phát triển rừng thấp; rủi ro với chu kỳ kinh doanh dài, thiên tai… hay việc đáp ứng các yêu cầu của tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng còn hạn chế…

Theo ông Trần Quang Bảo, thời gian tới, ngành tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững và Đề án trồng một tỷ cây xanh. Ngành đẩy mạnh nghiên cứu, chọn, tạo giống cây trồng lâm nghiệp; nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả rừng trồng; ứng dụng khoa học công nghệ; cơ giới hóa trồng rừng. Cùng với đó là phát triển vùng rừng trồng nguyên liệu tập trung, đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư vào phát triển rừng.

Phát biểu tại buổi tọa đàm, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan cho rằng, rừng là một hệ sinh thái thống nhất. Để bảo vệ, phát triển rừng cần có một tư duy mới về rừng, quan trọng là phải tạo được việc làm, sinh kế cho người dân dưới tán rừng. Rừng không chỉ là giá trị kinh tế, mà còn là ý nghĩa đa giá trị: bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, hệ sinh thái, tín ngưỡng của đồng bào dân tộc.

"Đối với doanh nghiệp sản xuất, chế biến đồ gỗ và lâm sản cần chuyển từ tư duy mua bán sang tư duy hợp tác với bà con, những người trồng rừng, bảo vệ rừng, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Đây là cơ sở để phát huy giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng, bảo vệ và phát triển rừng bền vững", Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhấn mạnh./.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục