Kinh tế năm 2021: Sóng cả không ngã tay chèo

07:47' - 24/12/2021
BNEWS Năm 2021, các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam phải đương đầu với những biến thể mới của virus SARS-CoV-2 kéo theo các hệ lụy nền kinh tế suy giảm, hệ thống y tế, sức khỏe người dân bị đe dọa.

Trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp, Việt Nam vẫn đạt và vượt một số chỉ tiêu kinh tế với GDP tăng trên 2%; xuất nhập khẩu vượt mốc 660 tỷ USD, tăng 21%, đưa Việt Nam vào nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế; xuất siêu tăng ngoạn mục những tháng cuối năm, đưa cả năm tăng khoảng 2,1 tỷ USD, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt hơn 29 tỷ USD, tăng gần 0,5 tỷ USD so với năm 2020…

Đây là kết quả của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp, người dân cùng với quyết sách linh hoạt của Chính phủ trong mỗi hoàn cảnh, đặc biệt là chuyển từ trạng thái zero COVID sang thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát dịch COVID-19.

Điều chỉnh kịp thời những hạn chế

Mặc dù các ca mắc COVID-19 vẫn chưa có dấu hiệu giảm với xấp xỉ 15.000 ca mỗi ngày trên cả nước nhưng với “vũ khí” vaccine cùng chiến lược thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19, nền kinh tế vẫn không ngừng trệ kể từ sau giãn cách xã hội kéo dài do dịch bùng phát lần thứ 4.

Và điều quan trọng những sách lược của Chính phủ đã củng cố được niềm tin với người dân và cộng đồng doanh nghiệp vững vàng chống chọi dịch bệnh, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh.

Năm 2021, Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề bởi 2 đợt bùng phát dịch nhưng ảnh hưởng nghiêm trọng nhất là làn sóng thứ 4 kéo dài từ cuối tháng 4 và tháng 7 lan trên diện rộng tại các tỉnh, thành phố lớn, các vùng kinh tế trọng điểm cả 2 đầu đất nước.

Một loạt các tỉnh, thành phố "đầu tàu" về sản xuất công nghiệp và thu ngân sách như: Tp. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ, Bắc Ninh, Bắc Giang, Bình Dương, Đồng Nai... phải thực hiện giãn cách xã hội nhiều tháng liên tục.

Riêng tại Tp. Hồ Chí Minh, thời điểm giãn cách xã hội, thành phố chỉ có 2.000 doanh nghiệp hoạt động, chiếm 0,7% tổng số doanh nghiệp toàn thành phố. Dịch bệnh với tốc độ lây lan nhanh, nguy hiểm buộc Chính phủ phải chỉ đạo áp dụng các biện pháp phòng chống dịch quyết liệt để bảo vệ sức khỏe, tính mạng của nhân dân.

Điều này khiến hoạt động sản xuất bị đình trệ, chuỗi cung ứng đứt gãy, sức mua giảm mạnh, đời sống nhân dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Quý III lần đầu tiên đầu tàu kinh tế Tp. Hồ Chí Minh tăng trưởng giảm tới 24,39%.

Trong quý này cả nước có tới hơn 1,8 triệu người thiếu việc làm, tăng 700 nghìn người so với quý trước. Theo đó, tăng tưởng kinh tế cả nước quý III giảm mạnh tới 6,17% - là mức giảm sâu nhất kể từ khi Việt Nam tính và công bố GDP quý đến nay. Tính chung 9 tháng, GDP chỉ tăng 1,42%.

Tuy nhiên với tinh thần quyết liệt chống dịch và quan trọng hơn cả là thay đổi đối sách từ zero COVID sang thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch theo Nghị quyết 128/NQ-CP về thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19 tại Đối thoại Chiến lược quốc gia Việt Nam – WEF lần đầu tiên bằng hình thức trực tuyến vào cuối tháng 10/2021, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã tự hào bày tỏ trước các chủ tịch, giám đốc điều hành, lãnh đạo các tập đoàn lớn trên thế giới về những nỗ lực Việt Nam đã vượt qua làn sóng dịch lần thứ 4.

Đó là tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam đã phục hồi trở lại và có nét khởi sắc trong tháng 10 do đã cơ bản kiểm soát được dịch bệnh và từng bước mở cửa nền kinh tế.

Tính chung 10 tháng, vốn FDI đăng ký mới tăng 11,6%; xuất khẩu tăng 16,6% so với cùng kỳ năm 2020. So với tháng 9, số doanh nghiệp thành lập mới tháng 10 tăng 111%, vốn đăng ký tăng 74%.

Đặc biệt, tổng cầu phục hồi mạnh, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng trên 18%. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 10 tháng chỉ tăng 1,81%.

Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định những khó khăn của Việt Nam chỉ mang tính thời điểm; yếu tố cơ bản là tiềm năng, lợi thế, động lực mới cho phát triển dài hạn và nền tảng vĩ mô, các cân đối lớn của kinh tế Việt Nam vẫn ổn định và vững chắc.

Để có một nền tảng vĩ mô vững chắc, Việt Nam đã ban hành ngay những chính sách chưa từng có trong tiền lệ để hỗ trợ kịp thời cho người dân, doanh nghiệp chịu tác động bởi dịch COVID-19.

Đó các chính sách hỗ trợ miễn, giảm thuế, phí, lệ phí, gia hạn nộp thuế, tiền thuế đất, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí…Các chính sách cho vay hỗ trợ trả lương cho người lao động, hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp…

Theo Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung, mặc dù còn nhiều hạn chế, khiếm khuyết trong quá trình thực hiện nhưng các chính sách đã góp phần thực hiện tốt an sinh xã hội.

Đặc biệt, các nhà hoạch định chính sách đã không e ngại nhìn nhận những hạn chế để có sự điều chỉnh kịp thời.

Có thể kể đến việc Chính phủ đã bỏ điều kiện doanh nghiệp không có nợ xấu mới được vay gói lãi suất 0% để trả lương cho người lao động bị ảnh hưởng do dịch COVID-19 tại Nghị quyết 126/NQ-CP về sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 68/NQ-CP của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19.

Trước đó, Nghị quyết 68 đã quy định doanh nghiệp có nợ xấu không được vay gói hỗ trợ này. Hay Thông tư 01/2020/TT-NHNN quy định về tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch COVID-19 đã được điều chỉnh 2 lần với thời gian hỗ trợ kéo dài hơn phù hợp với diễn biến dịch.

Bộ Tài chính tiếp tục đề xuất giảm 35 loại phí, lệ phí từ 1/1/2022 đến 30/6/2022, nối tiếp Thông tư 47/2021/TT-BTC quy định mức thu một số khoản phí, lệ phí nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho đối tượng chịu ảnh hưởng của dịch COVID-19 sẽ kết thúc vào 31/12/2021. Đề xuất này ngoài tăng thêm thời gian được hỗ trợ còn có thêm 5 loại phí được giảm so với Thông tư 47...

Nhận định về sự linh hoạt của Chính phủ, đại biểu Quốc hội Lê Văn Cường, đoàn Thanh Hóa nhìn nhận, Nghị quyết 128 là một bước thay đổi chiến lược giúp tối ưu hóa “những dòng chảy” trong xã hội, trong lưu thông hàng hóa và di chuyển của người dân. Đại biểu cho rằng sống chung với dịch bệnh là lựa chọn tốt nhất hiện nay của tất cả các nước trên thế giới.

Với mỗi địa phương cũng có những cách đi riêng trong vận dụng các chủ trương, chính sách của Chính phủ nhằm đảm bảo mục tiêu kép, thích ứng an toàn dịch bệnh.

Ông Ngô Hoàng Ngân, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Quảng Ninh cho biết, tỉnh thực hiện phương châm chống dịch chủ động, từ xa, từ sớm, từ cơ sở, từ đó đã ứng biến rất linh hoạt, kịp thời, phù hợp, bám sát các Nghị quyết của Quốc hội, điều hành của Chính phủ về thực hiện “mục tiêu kép” vừa chăm lo, bảo vệ sức khỏe, tính mạng của nhân dân, vừa ổn định phát triển kinh tế.

Kết quả, Quảng Ninh là một trong số ít địa phương có tốc độ tăng trưởng ở mức cao nhất cả nước, đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 2 con số.

Với các chính sách hỗ trợ kịp thời và sách lược linh hoạt, mặc dù dịch bệnh COVID-19 gây ảnh hưởng nghiêm trọng, tăng trưởng kinh tế năm 2021 Việt Nam vẫn dự kiến đạt trên 2%.

Ngành nông nghiệp dự kiến tăng trưởng 2,8%, tiếp tục khẳng định là trụ đỡ của nền kinh tế vừa đảm bảo an ninh lương thực, vừa đóng góp lớn kim ngạch xuất khẩu.

Lĩnh vực xuất khẩu dù chịu tác động của đứt gẫy chuỗi cung ứng nhưng với nỗ lực giữ đơn hàng, khách hàng, kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước dự kiến đạt trên 660 tỷ USD; trong đó xuất siêu lội ngược dòng trong những tháng cuối năm dự kiến đạt 2,1 tỷ USD đưa Việt Nam trở thành quốc gia xuất siêu 6 năm liên tiếp.

Bất chấp làn sóng lây nhiễm và đóng cửa do dịch COVID-19 trong năm, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn tiếp tục đổ vào Việt Nam dự kiến đạt trên 29 tỷ USD, tăng hơn 0,5 tỷ USD so với năm 2020. Điều này cho thấy niềm tin của các nhà đầu tư vẫn ở mức cao đối với Việt Nam.

Tuy nhiên năm 2021 vẫn có những hạn chế đã làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng. Đó là giải ngân vốn đầu tư công chậm, đến cuối tháng 11 mới đạt 64%; trong đó có tới 19 bộ và 2 địa phương có tỷ lệ giải ngân dưới 30%.

Ngoài nguyên nhân do dịch bệnh vẫn còn những nguyên nhân cố hữu như chuẩn bị dự án chưa tốt, khúc mắc trong giải phóng mặt bằng, năng lực ban quản lý, nhà thầu hạn chế, mất thời gian điều chỉnh dự án…

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhận định, nguyên nhân năm nay giải ngân đầu tư công chậm còn có một số lý do đặc thù là năm tổ chức Đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp, kiện toàn bộ máy tổ chức nhân sự mới, là năm đầu thực hiện kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2021-2025, năm đầu tiên thực hiện Luật Đầu tư công 2019.

Bên cạnh đó, việc đưa các gói chính sách vào thực tế có nơi còn chậm, người dân, doanh nghiệp chưa được hỗ trợ kịp thời đã làm giảm hiệu quả hỗ trợ.

Hay nhiều địa phương hiểu không đúng các quy định phòng chống dịch dẫn tới áp đặt, cứng nhắc khiến chuỗi cung ứng nông sản, hàng hóa bị đứt gẫy nặng nề làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp.

Trên diễn đàn của Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV diễn ra tháng 11, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Hoa Mai, đoàn Đồng Tháp đã thẳng thắn đề nghị: Cùng với vaccine phòng, chống COVID-19, Chính phủ cần có thêm một loại vaccine khác để chống bệnh trì trệ, né trách trách nhiệm, cục bộ và đó chính là cách thiết  thực cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả hoạt động của một Chính phủ liêm chính, hành động, Chính phủ vì dân.

Sớm khởi động chương trình phục hồi kinh tế

Theo dự báo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) chủng virus Omicron đang lây lan với tốc độ “chưa từng thấy”. Đây sẽ là một nguy cơ lớn cho không chỉ với Việt Nam, mà cả thế giới.

Với yếu tố bất định này, các chuyên gia cho rằng để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 6-6,5% trong năm 2022 như Quốc hội đặt ra, Việt Nam cần sớm khởi động chương trình phục hồi kinh tế; trong đó cần khắc phục những hạn chế của những gói hỗ trợ trước.

Theo dự kiến, cuối tháng 12/2021, Quốc hội sẽ tổ chức phiên họp đặc biệt để thảo luận 5 nội dung; trong đó, có nội dung về chương trình chính sách  tài khóa, tiền tệ trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế mà Chính phủ đã trình lên.

Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp.

Tuy nhiên, phần lớn vẫn chỉ nhằm vào mục tiêu ngắn hạn và chưa có một chương trình tổng thể, mang tính chất dài hạn với những giải pháp đồng bộ, thiết thực để khôi phục và từng bước thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở khống chế vượt qua đại dịch.

Vì vậy, mục đích quan trọng nhất của chương trình này là phục hồi kinh tế gắn với nâng cao năng lực nội tại, cải cách cơ cấu, cải thiện năng lực cạnh tranh, sức chống chịu của nền kinh tế trước các cú sốc trong tương lai.

Giám đốc Ngân hàng Phát triển châu Á tại Việt Nam, ông Andrew Jeffries nhận định, Việt Nam là nền kinh tế có độ mở lớn nên ảnh hưởng của dịch COVID-19 rất nặng nề và rõ rệt, nhưng đến nay các đối tác thương mại lớn của Việt Nam đang trên đà phục hồi nhanh chóng và từ đó thúc đẩy giao thương.

Bên cạnh đó, tỷ lệ tiêm phòng trong nước cũng tăng lên trong thời gian gần đây sẽ tạo điều kiện cho sự mở cửa sớm, góp phần tăng trưởng.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương cho biết, có 5 nhóm giải pháp trong Chương trình phục hồi phát triển kinh tế giai đoạn 2022-2023.

Đó là giải pháp phòng chống dịch và công tác y tế; an sinh xã hội; hỗ trợ doanh nghiệp; đẩy mạnh đầu tư công và quản lý điều hành, bảo đảm cân đối vĩ mô, kiểm soát lạm phát, kiểm soát rủi ro.

TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh đánh giá, các gói hỗ trợ, kích thích kinh tế nói riêng, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế nói chung cần được triển khai đủ mạnh, trúng và đúng.

Chính phủ đang tính tới gói hỗ trợ lên tới 10% GDP. Tuy nhiên, cần phải quản trị được rủi ro từ các chính sách và thực hiện đúng đối tượng, trúng mục tiêu.

Nhiều đánh giá khác cũng cho rằng, nếu thực thi tốt Chương trình này, kinh tế có thể được hỗ trợ thêm từ 1 - 1,5 điểm %.

Đồng tình quan điểm này, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế đề nghị các chính sách trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế cần đủ liều lượng, nguồn lực phải đủ lớn và thời gian triển khai đủ dài. Bên cạnh đó, việc triển khai xuống cấp cơ sở phải đúng và trúng đối tượng chứ không nên dàn trải./.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục