Nhìn lại những bài học lạm phát trong thập niên 1970

06:30' - 19/04/2022
BNEWS Trong năm qua, các chính trị gia và các nhà hoạch định chính sách đã theo dõi việc lạm phát gia tăng ở cả hai bờ Đại Tây Dương với sự lo lắng ngày càng tăng.

Giá cả tăng nhanh là kết quả không thể tránh khỏi của đại dịch, họ đã nói như vậy trước khi nói thêm rằng ít nhất tình hình không giống như thảm họa lạm phát của những năm 1970.

Tuy nhiên, theo tờ Financial Times của Anh, các chính trị gia và các nhà hoạch định chính sách cần xem xét kỹ hơn các bằng chứng. Lạm phát giá tiêu dùng trong tháng 3/2022 đã đạt mức cao mới trong 40 năm là 8,5% ở Mỹ và mức cao nhất trong 30 năm là 7% ở Anh.

Có hai nguyên nhân chính và mang nhiều điểm tương đồng với cú sốc dầu mỏ đầu tiên vào cuối năm 1973, khi các quốc gia Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) thực thi lệnh cấm vận dầu mỏ đối với các nước ủng hộ Israel trong cuộc chiến Yom Kippur.

Giai đoạn đó cũng có yếu tố giống như hiện nay: Cả thị trường lao động Mỹ và Anh đều có dấu hiệu cầu vượt cung. Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ trong tháng Ba đã giảm xuống mức 3,6%, chỉ cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với tỷ lệ thấp nhất trong hơn 50 năm. Tiền lương của người lao động Mỹ cũng tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước.

Tại Vương quốc Anh, số liệu thị trường lao động mới nhất cho thấy tỷ lệ thất nghiệp là 3,8%, mức thấp nhất kể từ năm 1973 trong khi cũng ghi nhận một kỷ lục về số lượng vị trí công việc cần tuyển dụng. Tổng tiền lương của lao động Anh tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2021.

Kết hợp với nhu cầu nội địa quá mức trên thị trường lao động là một cú sốc toàn cầu về nguồn cung khiến giá nhiên liệu và năng lượng tăng mạnh. Vào giữa những năm 1970, nguyên nhân giá năng lượng tăng là do một nhóm các nhà sản xuất dầu mỏ hùng mạnh tìm cách trừng phạt phương Tây. Lần này, thủ phạm là việc các chuỗi cung ứng bị kéo căng do những tác động lâu dài của đại dịch, cùng với mong muốn hạn chế mua khí đốt từ Nga.

Bổ sung cho những hạn chế về nguồn cung toàn cầu là những dấu hiệu cho thấy những tàn tích lâu dài không có lợi của COVID-19 ở trong nước đối với thị trường lao động, làm giảm số lượng người có sẵn và sẵn sàng làm việc ở cả Mỹ và Vương quốc Anh.

Do đó, lạm phát ở Mỹ và Anh vừa là hiện tượng do cầu kéo căng, vừa là hiện tượng chi phí tăng mạnh. Những diễn biến này giống như giai đoạn những năm 1970, đòi hỏi tất cả chúng ta phải nghiên cứu lại những bài học của thập kỷ đó.

Đầu tiên, có thể có những hậu quả kinh tế và chính trị tồi tệ khi điều hành một nền kinh tế chịu áp lực cao.

Kích cầu được cho là một chính sách có ít nhược điểm vì nó sẽ tăng việc làm, tái thu hút những người bị thiệt thòi vào thị trường lao động và tăng lương thực tế. Nhưng chúng ta phải hiểu lại rằng kích thích tài chính và tiền tệ quá mức, kết hợp cùng với việc làm và mức lương danh nghĩa tăng nhanh không đồng nghĩa là giúp tầng lớp trung lưu Mỹ trở nên khá giả hơn, nếu giá cả tăng nhanh hơn thu nhập.

Khi những người đó trở nên nghèo hơn, họ không có lòng tin trong việc giúp đỡ người khác có việc làm nếu tình hình càng thêm khó khăn. Dù thị trường lao động của Vương quốc Anh vẫn mạnh, nhưng thu nhập khả dụng thực tế của các hộ gia đình đang trên đà giảm mạnh nhất trong năm nay kể từ khi các số liệu này được bắt đầu ghi nhận vào năm 1956.

Bài học thứ hai đã được nhắc lại bởi một trong những cha đẻ của đồng tiền chung châu Âu trong tuần này. Khi chỉ trích Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) vì đã quá chậm chạp trong việc tăng lãi suất, ông Otmar Issing lưu ý rằng Ngân hàng trung ương Đức - Bundesbank - cho đến nay là thành công nhất trong những năm 1970 khi hành động quyết đoán nhằm làm giảm lạm phát và Tây Đức chỉ bị suy thoái nhẹ. Ông cũng nói rằng Fed đã đợi quá lâu, dẫn đến lạm phát hai con số và suy thoái sâu, rất sâu. Các nhà chức trách Vương quốc Anh đã mắc sai lầm thậm chí còn lớn hơn.

Với lịch sử và tình trạng cầu quá mức hiện tại, rõ ràng là Cục Dự trữ liên bang Mỹ và Ngân hàng trung ương Anh cần phải thắt chặt chính sách tiền tệ một cách đáng kể, loại bỏ phần lớn các biện pháp kích thích hiện đang tồn tại. Khó khăn, như ông Otmar Issing tự nhận thấy, là phải biết cần loại bỏ bao nhiêu và nhanh như thế nào.

Yếu tố gây sốc nguồn cung toàn cầu do giá năng lượng, nhiên liệu và lương thực tăng cao. Chúng đương nhiên sẽ làm giảm nhu cầu trong nước, đặc biệt là ở các nước nhập khẩu ròng các sản phẩm này như Vương quốc Anh.

Điều này đưa chúng ta đến bài học thứ ba và cũng là bài học cuối cùng của những năm 1970: Việc điều chỉnh chính sách thành công như Bundesbank đã làm khi đó là vô cùng khó khăn và đòi hỏi nhiều may mắn trong phán đoán.

Nguy cơ suy thoái ở cả hai bờ Đại Tây Dương hiện nay là rất cao. Có lẽ đã quá muộn, lạm phát đã tăng mạnh và chính sách tiền tệ cần tạo ra một cuộc suy thoái để đẩy tiền ra khỏi hệ thống. Hoặc là các nhà hoạch định chính sách sẽ quá thận trọng, quá chậm chạp và cho phép lạm phát kéo dài rồi lan sâu rộng vào nền kinh tế với những hậu quả khó lường.

Con đường mà tất cả chúng ta mong muốn rất hẹp và nằm giữa những thảm họa kinh tế này. Có thể chúng ta sẽ xóa bỏ được tình trạng lạm phát cao mà không rơi vào suy thoái kinh tế sâu sắc, nhưng tỷ lệ cược cho kết quả tốt đẹp này là thực sự thấp./.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục