The Financial Times: Sự phục hồi kinh tế đang che lấp các mối nguy hiểm

21:22' - 03/05/2021
BNEWS Nền kinh tế thế giới nhìn chung đang phục hồi nhanh hơn dự kiến, tuy nhiên, sự phục hồi chung của kinh tế toàn cầu đã che lấp những gì đang xảy ra với người dân trên thế giới.

Các phiên thảo luận tại cuộc họp gần đây của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) đều cho thấy nền kinh tế thế giới nhìn chung đang phục hồi nhanh hơn dự kiến, thậm chí là so với dự báo 6 tháng trước. Tuy nhiên, theo tờ Financial Times của Anh, sự phục hồi chung của kinh tế toàn cầu đã che lấp những gì đang xảy ra với người dân trên thế giới.

Cả trong phạm vi các quốc gia và giữa các quốc gia, những người chịu thiệt thòi dường như cũng có sự phục hồi chậm nhất. Ngoài ra, những gì đang diễn ra, nhất là việc triển khai tiêm chủng trên toàn cầu chậm, sẽ làm triển vọng tương lai trở nên xấu hơn.

Điểm nổi bật trong bản dự báo mới nhất của IMF là tăng trưởng GDP bình quân đầu người trên thế giới từ năm 2019 đến năm 2022 được dự báo chỉ thấp hơn 3% so với mức dự báo đưa ra hồi tháng 1/2020. Con số này tốt hơn nhiều so với mức giảm 6,5% vào năm ngoái và dự kiến giảm 4% trong năm nay. Bức tranh kinh tế thế giới đang phục hồi mạnh mẽ và tốt hơn mong đợi.

Tuy nhiên, điểm đáng chú ý hơn đó là sự phân kỳ. Các nền kinh tế tiên tiến hiện được dự báo sẽ có mức tăng trưởng GDP bình quân đầu người trong giai đoạn 2019-2022 chỉ thấp hơn 1% so với mức dự báo đưa ra tháng 1/2020. Tuy nhiên, các thị trường mới nổi và các nước đang phát triển có thu nhập thấp được dự báo mức giảm của tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người tương ứng là 4,3% (nếu không bao gồm Trung Quốc là 5,8%) và 6,5%.

Về bản chất, IMF dự đoán rằng các nền kinh tế tiên tiến và Trung Quốc sẽ thoát khỏi cuộc khủng hoảng này và nhìn chung là không bị tổn hại về mặt kinh tế, với kinh tế Mỹ thậm chí còn tăng lên hơn một chút so với dự báo trước đây, trong khi các nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển phải chịu tác động lớn và lâu dài. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng 2/3 dân số sống ở các nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển.

Diễn biến này trái ngược với những gì đã xảy ra sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009. Điều này một phần là do cuộc khủng hoảng đó có nguồn gốc từ các nước có thu nhập cao và cũng bởi vì sự phục hồi của Trung Quốc trong năm 2009 quá mạnh mẽ. 

Tuy nhiên, lý do lớn nhất cho sự khác biệt hiện nay là các nước có thu nhập cao đều sở hữu và sử dụng khả năng quản lý cú sốc này theo những cách mà ít nước khác, trừ Trung Quốc, có thể thực hiện. Đó là các nước giàu có thể làm dịu những ảnh hưởng của cú sốc kinh tế và xã hội bằng các phản ứng chính sách tài khóa và tiền tệ hiếm có và các nước này có thể phát triển, sản xuất và phân phối vaccine với tốc độ nhanh chóng.

Theo báo cáo Giám sát tài khóa của IMF, “trong 12 tháng qua, các quốc gia đã công bố các hành động tài khóa có tổng giá trị lên đến 16.000 tỷ USD”, nhưng phần lớn số tiền này là ở các nước tiên tiến. Thâm hụt ngân sách của các nền kinh tế tiên tiến từ năm 2019 đến năm 2020 đã tăng mạnh lên mức 11,7% GDP và sẽ ở mức 10,4% GDP vào năm 2021. 

Tại các nền kinh tế mới nổi, cũng trong khoảng thời gian trên, thâm hụt ngân sách tăng 5,1% lên 9,8% GDP. Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển có thu nhập thấp, thâm hụt ngân sách chỉ tăng 1,6% lên 5,5% GDP. 

Ngoài ra, Giám sát tài khóa nhấn mạnh, thâm hụt ngân sách tăng ở các nền kinh tế tiên tiến và một số nền kinh tế thị trường mới nổi là kết quả của hai yếu tố gần như tương đương nhau là tăng chi tiêu và giảm thu, trong khi ở nhiều nền kinh tế thị trường mới nổi và các nước đang phát triển có thu nhập thấp thâm hụt ngân sách tăng chủ yếu xuất phát từ việc giảm nguồn thu do kinh tế suy thoái.

Không nên cho rằng hiển nhiên phải dự báo các nền kinh tế tiên tiến sẽ phục hồi mạnh mẽ. Các biến thể mới kháng vaccine có thể lan ra khắp thế giới. Khả năng rất cao là các nước sẽ không thể sớm mở lại các đường biên giới. 

Cũng có thể, các chính sách tiền tệ và tài khóa hóa ra là đã quá mạnh, đặc biệt là ở Mỹ, như ông Larry Summers đã lập luận, tạo ra sự gia tăng mạnh về lạm phát, kỳ vọng lạm phát và lãi suất thực. Nếu đúng như vậy, các nhà hoạch định chính sách sẽ buộc phải "hãm phanh" và có thể tạo ra khủng hoảng nợ cho những người đi vay dễ bị tổn thương ở cả trong và ngoài nước.

Hơn nữa, ngay cả khi các quốc gia có thu nhập cao, Trung Quốc và một số quốc gia khác phục hồi mạnh mẽ, nhiều quốc gia mới nổi và đang phát triển có thể vẫn gặp khó khăn lớn do việc triển khai tiêm chủng vaccine chậm, các vấn đề trong quản lý nợ, những căng thẳng do tình trạng nghèo đói ngày càng trầm trọng và không gian chính sách hạn chế. Các nền kinh tế phụ thuộc vào du lịch sẽ nhận thấy sự phục hồi đặc biệt chậm, nhất là nếu các biến thể mới tiếp tục xuất hiện.

Do đó, các nhà hoạch định chính sách ở các nước giàu không nên thở phào nhẹ nhõm và ngoảnh mặt làm ngơ trước những thách thức toàn cầu. Thay vào đó, họ nên làm bất cứ điều gì cần thiết để cả thế giới được tiêm chủng vào cuối năm tới và hỗ trợ phát triển các mũi tiêm nhắc lại cho tất cả mọi người, nếu cần thiết. Họ nên làm những gì cần thiết để đảm bảo rằng tất cả các quốc gia có đủ nguồn lực cần thiết để đối phó với những cú sốc về kinh tế và y tế này. Các nước này cũng cần làm những gì cần thiết để đảm bảo rằng, nếu khủng hoảng nợ xuất hiện, họ biết ai là chủ nợ và làm thế nào để quản trị đàm phán.

Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, các nước giàu cần rút ra những bài học từ đại dịch này. Cho đến nay, đại dịch đã cướp đi sinh mạng của hơn 3 triệu người và gây ra một cú sốc kinh tế lớn. Đại dịch tiếp theo có thể tồi tệ hơn nhiều ở cả hai khía cạnh đáng buồn trên. Những hòn đảo được cho là an toàn sẽ không phát triển trong một thế giới bị đe dọa bởi bệnh tật./.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục