Xuất khẩu sụt giảm, chè Việt chinh phục thị trường nội địa

17:58' - 15/08/2025
BNEWS Trong khi xuất khẩu chè của Việt Nam gặp nhiều khó khăn, sụt giảm cả về khối lượng và giá trị, thị trường tiêu thụ nội địa lại ghi nhận sự phát triển mạnh, đặc biệt ở phân khúc chè chất lượng cao.

Diễn biến này cho thấy sự dịch chuyển rõ nét trong định hướng phát triển của ngành chè Việt Nam, mở ra nhiều cơ hội mới cho sản phẩm chè trong nước.

Theo GS.TS Nguyễn Văn Toàn, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc, năm 2024, xuất khẩu chè của Việt Nam đạt gần 150.000 tấn, với giá bình quân 1,75 USD/kg, mang lại tổng kim ngạch hơn 250 triệu USD. Trong khi đó, dù chỉ tiêu thụ khoảng 55.000 tấn chè trên thị trường nội địa, nhưng nhờ giá bán bình quân lên tới 7,5 USD/kg, tổng giá trị tiêu thụ trong nước ước đạt tới 410 triệu USD, vượt xa giá trị xuất khẩu.

 

Đáng chú ý, cơ cấu sản phẩm xuất khẩu cũng có sự thay đổi đáng kể. Nếu như trước đây, chè đen từng chiếm 60–70% tổng lượng chè xuất khẩu thì hiện nay, chè xanh đã vươn lên chiếm gần 60% sản lượng và tới 70% giá trị xuất khẩu. Chè đen chỉ còn chiếm khoảng 39% tổng lượng xuất khẩu.

Ông Toàn cho biết: Trước đây, chè đen từng chiếm ưu thế, nhưng hiện đã nhường chỗ cho sự tăng trưởng mạnh mẽ của chè xanh. Đây là dòng sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế, đồng thời có giá trị kinh tế cao hơn. Thực tế cho thấy, chè xanh tiêu thụ nội địa tuy chỉ bằng gần 1/3 sản lượng xuất khẩu, nhưng nhờ mức giá cao, giá trị mang lại tốt hơn.

Tại Thái Nguyên – một trong những vùng chè trọng điểm giá bán trong nước hiện đã đạt mức 7–8 USD/kg, trong khi giá xuất khẩu sang các thị trường cao cấp như Anh chỉ ở mức 6–7 USD/kg. Điều này khiến nhiều hộ sản xuất và doanh nghiệp ưu tiên thị trường trong nước để nâng cao hiệu quả kinh tế.

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho thấy, 7 tháng năm 2025, xuất khẩu chè đạt 69.900 tấn, thu về 117 triệu USD, giảm 10,9% về khối lượng và giảm 12,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024. Giá chè xuất khẩu bình quân cũng giảm 1,4%, xuống còn 1.674 USD/tấn. Pakistan và Trung Quốc vẫn là hai thị trường tiêu thụ chè lớn nhất của Việt Nam.

Hiện ngành hàng chè đang được củng cố đáng kể nhờ các chính sách phát triển vùng nguyên liệu, đa dạng hóa sản phẩm và ứng dụng công nghệ trong chế biến. Theo Đề án Phát triển cây công nghiệp chủ lực đến năm 2030, ngành hàng chè Việt Nam đặt mục tiêu nâng diện tích trồng lên 130.000–135.000 ha, sản lượng chè búp tươi đạt khoảng 1,2–1,4 triệu tấn, giá trị xuất khẩu từ 280–300 triệu USD. Theo đó là nâng cao tỷ lệ chè được chế biến sâu, đặc biệt phục vụ các ngành thực phẩm, mỹ phẩm và y tế. Đề án cũng định hướng phát triển các dòng sản phẩm mới như chè túi lọc, chè Ô long, Matcha, Sencha bằng công nghệ hiện đại, nâng tỷ lệ chè chế biến hiện đại.

Việc phát triển ngành hàng chè phải gắn liền với chuyển đổi giống cây trồng, trồng mới và cải tạo những nương chè già cỗi. Theo Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc, việc chọn tạo giống chè trong những năm qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Những giống chè mới chất lượng cao là tiền đề quan trọng để cơ cấu lại giống chè toàn quốc, nâng cao năng suất và chất lượng chè Việt.

Ông Nguyễn Văn Toàn cho rằng, các địa phương cần tập trung phát triển dòng chè xanh cao cấp phục vụ thị trường trong nước. Việc chuyển đổi nhanh sang các giống chè có giá trị gia tăng sẽ giúp tạo vùng nguyên liệu ổn định, từng bước tiếp cận phân khúc thị trường cao cấp.

Những sản phẩm chè xanh ướp hương, đặc biệt là chè nhài, đang rất được ưa chuộng không chỉ tại Việt Nam mà còn ở thị trường quốc tế. Nếu khai thác hiệu quả, dòng sản phẩm này có thể tạo nên chuỗi giá trị khác biệt, nâng cao năng lực cạnh tranh và mở ra hướng phát triển bền vững cho ngành hàng chè.

Tại Thái Nguyên – thủ phủ chè của cả nước với hơn 23.500 ha, sản lượng gần 300.000 tấn/năm. Năm 2025, sản lượng chè búp tươi toàn tỉnh dự kiến đạt hơn 275.000 tấn, sau chế biến khoảng 55.000 tấn, với tổng giá trị ước đạt gần 15.000 tỷ đồng. Tỉnh cũng có tới 207 sản phẩm trà được công nhận OCOP từ 3 sao đến 5 sao; trong đó có 3 sản phẩm đạt chuẩn 5 sao. Thái Nguyên đặt mục tiêu đến năm 2030, tổng giá trị từ cây chè đạt 25.000 tỷ đồng. 

Riêng tại xã Tân Cương, địa phương đang đẩy mạnh phát triển kinh tế dựa trên chè bằng cách ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp xanh, nông nghiệp sạch và chuyển đổi số. Theo bà Dương Thị Thu Hằng – Bí thư xã Tân Cương, mục tiêu đến năm 2030, giá trị sản phẩm chè kinh doanh trên 1 ha đạt trên 1,1 tỷ đồng. Xã cũng đẩy mạnh xây dựng các điểm du lịch cộng đồng dựa trên văn hóa trà và sinh thái nông thôn, qua đó nâng tầm giá trị chè không chỉ về mặt kinh tế mà cả văn hóa và du lịch.

Một điển hình trong phát triển chè sạch là Hợp tác xã chè Kim Thoa tại xã Đại Phúc, tỉnh Thái Nguyên. Với diện tích 5 ha trồng theo hướng VietGAP, mỗi năm hợp tác xã thu được hơn 88 tấn chè búp tươi, sản xuất ra khoảng 6 tấn chè khô, doanh thu đạt khoảng 1 tỷ đồng. Bà Tống Thị Kim Thoa – Giám đốc Hợp tác xã cho biết, quy trình sản xuất được quản lý chặt chẽ từ trồng, chăm sóc đến thu hái và chế biến, bảo đảm chất lượng đồng đều và an toàn thực phẩm. Sản phẩm của hợp tác xã hiện đạt chuẩn OCOP 4 sao và được thị trường đón nhận tích cực.

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, kế hoạch xuất khẩu năm 2025 đặt mục tiêu đạt 270 triệu USD, tăng 5% so với năm 2024. Tuy nhiên, để đạt mục tiêu này, ngành hàng chè cần tiếp tục đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa chủng loại, xây dựng thương hiệu mạnh và đẩy mạnh xúc tiến thương mại sang các thị trường tiềm năng như Canada, Nga, Trung Đông. Đồng thời, doanh nghiệp – nông dân cần tăng cường hỗ trợ liên kết sản xuất an toàn theo chuỗi, tổ chức sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo nền tảng vững chắc để chè Việt vừa mở rộng thị trường xuất khẩu, vừa củng cố vị thế tại sân nhà.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục