Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Trọng tâm 2018 là đổi mới, hoàn thiện chính sách, pháp luật

10:48' - 15/02/2018
BNEWS Nhân dịp đầu Xuân Mậu Tuất 2018, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà đã dành thời gian trao đổi với phóng viên TTXVN về những nhiệm vụ trọng tâm của ngành.
Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà. Ảnh: TTXVN
Trong đó vấn đề đổi mới, hoàn thiện chính sách, pháp luật, cắt giảm thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư kinh doanh để tạo nền tảng vững chắc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, sử dụng tài nguyên và môi trường cho phát triển bền vững được đặc biệt chú trọng. Sau đây là nội dung cuộc trao đổi: 
Đổi mới quản lý đất đai đóng góp khoảng 12% thu ngân sách nội địa 
*Phóng viên: Đề nghị Bộ trưởng đánh giá về 4 mục tiêu lớn mà ngành Tài nguyên và Môi trường đề ra trong năm 2017 đã được thực hiện như thế nào? 
*Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Nếu như năm 2016 là năm toàn ngành Tài nguyên và Môi trường đã vượt qua khó khăn, thì năm 2017 chính là năm tạo nền tảng. Toàn ngành tập trung vào 4 mục tiêu lớn là giải quyết tồn tại của quá trình phát triển nóng để lại; tháo gỡ, cởi trói các điểm nghẽn về chính sách đưa nguồn lực tài nguyên và môi trường vào sản xuất, kinh doanh thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; đẩy mạnh cải cải cách thủ tục hành chính; tổng kết đánh giá một số chính sách, chiến lược quan trong như đất đai, môi trường, khoáng sản, biển đảo để tiếp tục đổi mới, hoàn thiện nhằm tạo ra động lực mới cho phát triển của giai đoạn mới. Kết thúc năm 2017, toàn ngành đã hoàn thành nhiều nhiệm vụ đặt ra, thể hiện ở các kết quả chủ yếu sau: 
Về hoàn thiện thể chế: Trong năm 2017 nhiều chính sách mới đã được ban hành, theo sát yêu cầu thực tiễn, tháo gỡ được nhiều khó khăn để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Ví dụ như Nghị định số 01/2017/NĐ-CP đã cơ bản tháo gỡ được các vướng mắc trong công tác quản lý, xóa bỏ nhiều điểm nghẽn, đơn giản hóa thủ tục về đất đai để thúc đẩy các hoạt động đầu tư, phát triển thị trường bất động sản. Đặc biệt, đã bổ sung quy định được đánh giá là “cởi trói” cho nông nghiệp khi cho phép tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất không thu tiền để thực hiện dự án đầu tư sản xuất nông nghiệp được tiếp tục sử dụng đất mà không phải chuyển sang thuê đất để khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp; cho phép nông dân được linh hoạt chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa nếu việc chuyển đổi không làm mất đi các điều kiện phù hợp để trồng lúa trở lại. 
Đồng thời với việc hoàn thiện thêm một bước về pháp luật, cơ chế chính sách về tài nguyên và môi trường với việc cơ bản hoàn thành việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các Luật chuyên ngành, bao gồm đất đai, tài nguyên nước, môi trường, quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, khí tượng thủy văn, công tác chỉ đạo liên ngành và quản lý tổng hợp, sự kết nối hữu cơ của các lĩnh vực quản lý của Bộ ngày càng được củng cố và tăng cường. Điều đó thể hiện qua 2 nghị quyết chuyên đề của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại và về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường. 
Vấn đề cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm chi phí cho người dân, doanh nghiệp được Bộ hết sức chú trọng và đạt được những kết quả quan trọng, nên đã thực hiện việc tiếp nhận giải quyết theo hình thức trực tuyến đối với 71 thủ tục hành chính; thực hiện liên thông 11 thủ tục hành chính trong 3 lĩnh vực môi trường, nước và biển, đảo; đề xuất cắt giảm 45% điều kiện kinh doanh; rút ngắn 1/3-1/2 thời gian thực hiện các thủ tục về cấp giấy chứng nhận. 
Trước nguy cơ lớn do biến đổi khí hậu, xung đột trong phát triển nội tại cũng như các tác động từ thượng nguồn đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ đã chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, các Bộ, ngành tổ chức rất thành công Hội nghị huy động sáng kiến, qua đó đã trình Chính phủ ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Đây là mô hình điểm để nhân rộng ra các vùng khác trên cả nước trong thời gian tới. 
Kết quả, công tác quản lý, sử dụng đất đai có sự chuyển biến rất rõ nét, vừa đóng góp được nguồn lực tài chính cho ngân sách nhà nước với khoảng 12% tổng thu ngân sách nội địa; vừa đáp ứng được yêu cầu tái cơ cấu kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái. Nhiều địa phương đã triển khai các mô hình tích tụ, tập trung đất đai, đẩy nhanh tiến trình dồn điền đổi thửa để cơ giới hóa đồng ruộng, sản xuất quy mô lớn, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Nguồn lực tài chính từ đất đai đóng góp khoảng 12% thu ngân sách nội địa. 
Một vấn đề gây bức xúc trong dư luận thời gian trước đây là tình trạng lãng phí đất đai, chậm đưa đất vào sử dụng thì năm nay đã được giải quyết tốt với việc giảm gần 78.000 ha. Một vấn đề khác đang thu hút sự quan tâm nhất của người dân, Bộ nhận được rất nhiều ý kiến phản ánh là thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì năm 2017 đã có sự chuyển biến tích cực từ quy định đến thực thi. Cả nước đã thực hiện cấp Giấy chứng nhận lần đầu đối với 96,6% diện tích cần cấp, tăng 1,8 triệu giấy so với năm 2016. Đặc biệt, ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh đã có sự vào cuộc của các cấp ủy đảng trong chỉ đạo, kiểm tra, giám sát. 
Kiểm soát, không để phát sinh các điểm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng 
Kết quả nổi bật tiếp theo là năm 2017, ngành đã tạo ra những chuyển biến lớn, chuyển dần từ thế bị động sang chủ động kiểm soát, phòng ngừa, không để phát sinh các sự cố, điểm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Việc giám sát chặt chẽ hoạt động khắc phục các tồn tại, vi phạm của Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (FHS) để doanh nghiệp này đi vào vận hành, sản lượng khoảng 1,5 triệu tấn thép, đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng GDP của năm 2017. Qua đây cũng cho thấy, một mô hình, cơ chế mới về kiểm soát chặt chẽ đối với các cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao đang được hình thành và triển khai nhân rộng. Chúng tôi cũng đang khẩn trương xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án kiểm soát đặc biệt các đối tượng có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao nhằm chủ động kiểm soát chặt chẽ, phòng ngừa, không để xảy ra các sự cố môi trường ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 
Năm 2017 là năm kỷ lục về các hiện tượng thiên tai khốc liệt, cực đoan và dị thường tại nhiều nơi trên cả nước, với 16 cơn bão, 4 áp thấp nhiệt đới trên Biển Đông, 15 đợt nắng nóng diện rộng với những trị số nắng nóng lịch sử 42 độ C ở miền Bắc và miền Trung; nhiều trận mưa lớn diện rộng, lũ lớn đạt mức lịch sử. Ngành Tài nguyên và Môi trường đã dự báo kịp thời các hiện tượng thời tiết cực đoan trên diện rộng, chính thức đưa thông tin về trượt lở đất, lũ ống, lũ quét trong bản tin cảnh báo, dự báo khí tượng thủy văn. Cũng trong năm 2017, nhiều hệ thống cảnh báo thiên tai với công nghệ hiện đại được ngành đưa vào sử dụng, vận hành góp phần nâng cao chất lượng và tính chính xác của các bản tin dự báo. 
Việc triển khai kinh tế hoá trong lĩnh vực quản lý tài nguyên nước, trong đó đưa ra phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác, sử dụng tài nguyên nước mặt, nước dưới đất. Đây là bước đi nhằm cụ thể hóa quan điểm tài nguyên nước là tài sản của nhà nước, thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, góp phần nâng cao ý thức sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả đặc biệt trong bối cảnh an ninh nguồn nước đang là thách thức lớn đối với phát triển của Việt Nam. 
Toàn ngành đã hoàn thành việc sơ kết đánh giá một cách toàn diện các chủ trương, chính sách, pháp luật đối với 2 lĩnh vực hết sức quan trọng cho phát triển bền vững là đất đai, môi trường; tổng kết đánh giá hai chiến lược lớn là khoáng sản và biển đảo, qua đó xác định những bất cập, rào cản, những vấn đề cần tiếp tục đổi mới để sửa đổi 02 đạo luật quan trọng là Luật đất đai, Luật Bảo vệ môi trường và ban hành chiến lược mới về khoáng sản và biển đảo. Đây là bước chuẩn bị nhằm tạo ra nền tảng và động lực mới cho giai đoạn phát triển mới của đất nước. 
Xác định rõ 5 thách thức của năm 2018 
* Phóng viên: Những khó khăn, thách thức mà ngành Tài nguyên và Môi trường sẽ phải đối mặt trong năm 2018 như thế nào, thưa Bộ trưởng? 
* Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Hiện vẫn còn khá nhiều thách thức đặt ra cho ngành, nhưng 5 thách thức lớn được nhận diện cũng là những đòi hỏi, mong muốn, kỳ vọng của Đảng, Nhà nước, nhân dân đặt ra với ngành trong năm 2018 và những năm tiếp theo. 
Trước hết, đó là những thách thức từ tình trạng sử dụng các nguồn tài nguyên chưa hợp lý, kém hiệu quả. Nguồn lực tài nguyên chưa trở thành nguồn lực, động lực thúc đẩy giải phóng sức sản xuất cho phát triển kinh tế - xã hội; suy thoái, suy giảm các nguồn tài nguyên đang diễn ra ở một số nơi do tác động của biến đổi khí hậu, của hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là vấn đề bảo đảm an ninh nguồn nước. 
Mặc dù đã có những chuyển biến tích cực nhưng công tác quản lý đất đai còn những hạn chế, hiệu quả sử dụng đất còn thấp so với các nước trong khu vực. Việc giải quyết các vấn đề tồn tại trong quản lý đất công, đất có nguồn gốc từ nông, lâm trường, đất của các doanh nghiệp nhà nước, giải quyết vấn đề tranh chấp, lấn chiếm đất đai còn gặp khó khăn do nhiều yếu tố có tính lịch sử, nguồn gốc đất đai phức tạp, chính sách đất đai thay đổi qua nhiều thời kỳ, hồ sơ pháp lý không đầy đủ. Chính sách, pháp luật về đất đai chưa theo kịp yêu cầu phát triển của thực tiễn, một số quy định còn chưa phù hợp, tạo ra rào cản, chưa giải quyết hài hòa lợi ích giữa nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư dẫn đến chưa giải quyết đứt điểm khiếu kiện phức tạp trong lĩnh vực đất đai. 
Ô nhiễm môi trường vẫn diễn biến phức tạp do tác động tích lũy trong thời gian dài, trong khi công tác huy động nguồn lực xã hội trong giải quyết vấn đề môi trường chưa được triển khai thực hiện hiệu quả; năng lực, công nghệ xử lý rác thải còn hạn chế; ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí diễn ra ở nhiều nơi; đa dạng sinh học có chiều hướng bị suy giảm. 
Dưới tác động của biến đổi khí hậu, tần suất xuất hiện các hiện tượng thời tiết cực đoan ngày càng nhiều, nghiêm trọng, diễn biến khó lường, trong khi hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ quan trắc, dự báo còn hạn chế. Nguồn lực cho ứng phó với biến đổi khí hậu còn khó khăn. 
Một thách thức khác đó là vấn đề lực lượng cán bộ, năng lực quản lý, cách thức quản lý của ngành còn hạn chế, trong thời gian tới sẽ tiếp tục phải tinh giản. Qua kiểm tra thực tế ở nhiều địa phương, ví dụ như ở Tây Nguyên chỉ 1 đến 2 cán bộ địa chính phải quản lý quỹ đất lớn hơn cả một huyện; hay ở nhiều địa bàn, lực lượng làm cán bộ môi trường rất là mỏng; một số địa phương cán bộ làm công tác quản lý về biển và hải đảo chưa được đào tạo theo đúng chuyên ngành... Đây là áp lực lớn, đòi hỏi phải triển khai thực hiện công tác đào tạo, đào tạo lại; đồng thời cần đổi mới phương thức quản lý, hiện đại hóa ngành. 
Tập trung thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh 
*Phóng viên: Để vượt qua những khó khăn, thách thức nêu trên, xin Bộ trưởng cho biết ngành Tài nguyên và Môi trường sẽ tập trung vào những giải pháp cụ thể như thế nào ? 
* Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Cùng với vị trí, vai trò của ngành Tài nguyên và Môi trường đang ngày càng được nâng cao thì yêu cầu đổi mới, hiệu quả trong công tác quản lý tài nguyên và môi trường cũng được đặt ra ở các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Quốc hội, Chính phủ trong chuyển đổi mô hình kinh tế, là điều kiện hiện nay của đất nước, cũng chính là đòi hỏi, mong chờ của nhân dân và doanh nghiệp đối với ngành. Đây chính là mệnh lệnh để toàn ngành phải thay đổi, đột phá trong xây dựng thể chế, chính sách, pháp luật để kiến tạo, tạo động lực cho phát triển trước mắt và lâu dài; kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, hiệu quả trong tổ chức thực hiện chính sách pháp luật để tạo ra được chuyển biến mạnh mẽ trong thực tiễn. 
Do đó, nhiệm vụ đặt ra cho ngành Tài nguyên và Môi trường là về lâu dài, phải tận dụng được thời cơ, chuyển hoá được các thách thức, trở thành động lực cho phát triển bền vững với vai trò kiến tạo, thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh, phát thải các-bon thấp. Trước mắt, toàn ngành sẽ tiếp tục tăng cường hơn nữa sự gắn kết giữa các lĩnh vực, giải quyết hài hòa giữa quản lý, sử dụng hiệu quả, huy động nguồn lực tài nguyên cho tăng trưởng, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và bảo vệ được tài nguyên, môi trường; tạo sức lan toả trong nhận thức và hành động của các cấp chính quyền, cũng như toàn xã hội nhằm hướng tới mô hình sản xuất, tiêu dùng bền vững, hạn chế sự thoái hoá, suy giảm tài nguyên, ô nhiễm môi trường, tăng cường an ninh nguồn nước, gia tăng khả năng thích ứng và sức chống chịu với tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Trong đó tập trung hoàn thiện, xóa bỏ rào cản thể chế; nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật, tăng cường kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh cải cách hành chính để góp thêm xung lực cho phát triển kinh tế-xã hội; tạo nền tảng cho nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, sử dụng tài nguyên và môi trường cho phát triển bền vững. 
Để làm được điều đó, toàn ngành Tài nguyên và Môi trường triển khai với quyết tâm cao một số nhiệm vụ trọng tâm. Đó là hoàn thiện tổ chức bộ máy từ Trung ương đến cơ sở đảm bảo tinh gọn, hiệu quả; đào tạo, kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác tài nguyên và môi trường cấp cơ sở, nêu cao tinh thần liêm chính, kiến tạo, hành động, gần dân được quán triệt thực hiện nghiêm túc, thể hiện trong việc cầu thị lắng nghe, tiếp thu ý kiến phản ánh của địa phương, cơ sở, người dân và doanh nghiệp. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính; tăng cường kiểm tra, thanh tra việc thực thi công vụ của cán bộ, công chức. 
Ngành tham mưu cho Chính phủ, Quốc hội hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách quản lý về tài nguyên và môi trường phù hợp với thực tiễn trong nước, hài hoà với các quy định quốc tế. Trước mắt tập trung đánh giá một cách khách quan tình hình thi hành để xác định, khắc phục những bất cập, lỗ hổng về chính sách, pháp luật về tài nguyên và môi trường; đề xuất những chính sách có tính mới, phù hợp với thực tiễn để tạo sự bước đột phá cho phát triển. Củng cố, nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về tài nguyên và môi trường. Đây là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt đối với tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, đặc biệt cần nâng cao hiệu quả phối hợp với các cấp, các ngành trong quá trình tổ chức thực hiện thanh tra ở địa phương, tránh chồng chéo, trùng lắp. 
Tập trung triển khai quyết liệt để tạo được chuyển biến mạnh mẽ công các cải cách hành chính trong năm 2018 và những năm tiếp theo. Đặc biệt là cải thiện chỉ số tiếp cận đất đai và chỉ số cải cách hành chính (PAPI). Nâng cao chất lượng giải quyết thủ tục hành chính và chất lượng dịch vụ công của ngành. Công bố công khai thủ tục tại nơi tiếp nhận, thiết lập hệ thống tiếp nhận đánh giá, phản hồi của người dân và doanh nghiệp để đánh giá kết quả cải cách các thủ tục hành chính, chất lượng cung cấp dịch vụ công giữa các đơn vị. 
Đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản làm căn cứ xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước; khai thác, sử dụng, bảo vệ có hiệu quả nguồn tài nguyên của quốc gia. Tập trung nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ phục vụ điều tra cơ bản, xây dựng luận cứ khoa học và thực tiễn phục vụ công tác hoạch định chính sách về tài nguyên và môi trường; xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu của ngành phục vụ phát triển kinh tế-xã hội. Nâng cao chất lượng của công tác quan trắc và dự báo. 
Năm 2018 tiếp tục là năm Bộ đặt trọng tâm vào đổi mới, hoàn thiện chính sách, pháp luật; cắt giảm thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư kinh doanh bởi đây chính một trong những then chốt để giải quyết các thách thức nêu trên, cũng như tạo động lực cho phát triển đất nước trong giai đoạn mới. 
Phải quyết liệt trong triển khai để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát tập trung vào những vấn đề bức xúc đang đặt ra như lãng phí đất đai, đất của các nông, lâm trường. sử dụng đất đai trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; kiểm soát chặt chẽ các dự án có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao; tăng cường bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản; vận hành điều tiết của các hồ chứa, khai thác… Thực hiện tốt công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo ở từng cấp. 
Giải quyết tình trạng lãng phí tài nguyên đất; quản lý, bảo vệ môi trường theo cơ chế thị trường 
Trong lĩnh vực đất đai, sẽ tập trung sửa đổi Luật Đất đai một cách căn cơ nhằm xóa bỏ các rào cản, điểm nghẽn, tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút các nguồn lực khác cho phát triển; giải quyết hài hòa lợi ích giữa nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư để giảm bớt khiếu kiện trong lĩnh vực đất đai; đồng thời sử dụng hợp lý, hiệu quả, bảo vệ tài nguyên, nguồn lực đất đai cho phát triển bền vững trong tầm nhìn dài hạn, đảm bảo yêu cầu sinh tồn (quỹ đất cho đảm bảo an ninh lương thực, nhà ở, an ninh nguồn nước), yêu cầu về sinh thái (diện tích đất rừng, cây xanh, nguồn sinh thủy…); yêu cầu cho phát triển (quỹ đất cho xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, cơ sở sản xuất kinh doanh…). 
Giải quyết tình trạng lãng phí tài nguyên đất; xử lý công bố công khai các dự án chậm đưa đất vào sử dụng; đẩy nhanh tiến độ rà soát, giải quyết tình trạng tranh chấp, lấn chiếm đất đai, thực hiện đo đạc, cắm mốc ranh giới, lập hồ sơ địa chính, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận đối đất có nguồn gốc từ các nông, lâm trường quốc doanh; lập phê duyệt phương án sử dụng đối với quỹ đất bàn giao cho địa phương gắn với giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc, dân di cư tự do. Thực hiện tốt công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là các dự án trọng điểm quốc gia, bảo đảm an sinh cho người có đất bị thu hồi, giảm khiếu kiện trong lĩnh vực đất đai. 
Trong lĩnh vực môi trường, cần có những thay đổi có tính cách mạng để thực hiện quan điểm không đánh đổi môi trường lấy kinh tế. Trước hết, từ việc sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ Môi trường để tạo ra những cơ chế đột phá để quản lý, huy động nguồn lực xã hội trong giải quyết vấn đề môi trường. Hoàn thiện các công cụ kinh tế để chuyển dần trọng tâm từ các biện pháp hành chính sang cơ chế thị trường trong quản lý, bảo vệ môi trường theo nguyên tắc người gây ô nhiễm, người được hưởng lợi từ môi trường phải trả tiền. Chủ động trong phòng ngừa, chuyển quản lý, bảo vệ môi trường cuối đường ống sang bảo vệ môi trường ở đầu đường ống và trong suốt quá trình, kiên quyết loại trừ quan điểm sản xuất trước làm sạch sau. Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp môi trường, công nghệ xử lý và các ngành công nghiệp môi trường để chuyển hóa rác thải thành tài nguyên, rác thải được tái chế, tái sử dụng một cách hợp lý; chuyển từ khai thác, thâm dụng vào vốn tự nhiên trong phát triển kinh tế sang bảo vệ phục hồi, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh. 
Hoàn thiện các hàng rào kỹ thuật, các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường làm công cụ để sàng lọc các loại hình sản xuất, công nghệ sản xuất có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao ngay trong quá trình thu hút đầu tư, chuẩn bị đầu tư. Kiểm soát chặt chẽ các nguồn thải có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao. Tập trung xử lý ô nhiễm, cải thiện môi trường ở khu vực đô thị, nông thôn, làng nghề, khu, cụm công nghiệp, lưu vực sông, hồ, ven biển… Phòng ngừa, giảm thiểu tác động xấu lên môi trường, thông qua việc nâng cao chất lượng đánh giá tác động môi trường (ĐTM), đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC), kiên quyết không cấp phép các dự án không đảm bảo yêu cầu về bảo vệ môi trường. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền để mỗi người hiểu bảo vệ môi trường là bảo vệ sức khoẻ, cuộc sống của chính mình và các thế hệ con cháu mai sau qua đó nhận thức rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi để mỗi người bằng hành động “nhỏ” trong bảo vệ môi trường sẽ tạo ra chuyển biến “lớn” trong vấn đề bảo vệ môi trường. 
Hiện đại hóa mạng lưới trạm khí tượng thủy văn bằng nguồn vốn đầu tư của nhà nước, nguồn vốn xã hội hóa; triển khai phân vùng rủi ro thiên tai, lập bản đồ cảnh báo thiên tai. Phấn đấu mục tiêu tăng thời hạn dự báo bão, áp thấp nhiệt đới lên 72 giờ, thời hạn cảnh báo bão đến trước 3-5 ngày, cảnh báo sớm chi tiết đối các đợt mưa lũ lớn diện rộng, lũ vừa và lớn trên các hệ thống sông chính trước từ 1-3 ngày. Thay đổi tư duy phát triển; tôn trọng các quy luật tự nhiên, lựa chọn các mô hình thích hợp gắn với liên kết vùng để chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, chặn đà suy giảm tài nguyên. Triển khai hiệu quả Nghị quyết của Chính phủ về phát triển bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu; nghiên cứu các giải pháp nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu các vùng chịu nhiều tác động như duyên hải miền Trung, miền núi phía Bắc. 
Toàn ngành sẽ tiếp tục triển khai thực hiện công tác điều tra cơ bản về tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, tài nguyên biển gắn với quy hoạch sử dụng hợp lý. Điều phối, giám sát, giải quyết các vấn đề liên vùng, liên ngành, liên địa phương trong quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước trên lưu vực; hợp tác chặt chẽ với các nước trong chia sẻ nguồn nước xuyên biên giới, trong quản lý tài nguyên môi trường biển. Ngăn chặn có hiệu quả tình trạng khai thác khoáng sản, đá, cát sỏi trái phép; xử lý nghiêm các vi phạm. 
Tiếp tục coi trọng công tác cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa về chất lượng dịch vụ công nâng cao chỉ số hài lòng của người dân và doanh nghiệp. Đổi mới phương thức quản lý, cách thức điều hành; từng bước hiện đại hóa ngành; trước mắt cần tập trung xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về tài nguyên và môi trường, cơ sở dữ liệu về đất đai phục vụ công tác quản lý và chỉ đạo, điều hành. Tăng cường phối hợp giữa Trung ương và địa phương để giải quyết kịp thời các vướng mắc phát sinh; thiết lập hệ thống kết nối, chia sẻ, phản hồi thông tin giữa Bộ và các Sở Tài nguyên và Môi trường. 
Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng! 

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục