Giảm thuế nhập khẩu LNG giúp đa dạng nguồn khí cho sản xuất điện “xanh”

10:24' - 09/04/2025
BNEWS Phóng viên TTXVN đã phỏng vấn ông Nguyễn Phúc Tuệ, Phó Tổng Giám đốc PV GAS xung quanh việc giảm thuế nhập khẩu LNG.

Thuế nhập khẩu ưu đãi cho mặt hàng khí tự nhiên dạng hóa lỏng (LNG) được giảm từ 5% xuống 2% (theo Nghị định số 73/2025/NĐ-CP ngày 31/3/2025) sẽ đa dạng nguồn cung LNG trong nước, góp phần đảm bảo nguồn nhiên liệu sạch đầu vào cho sản xuất điện “xanh”, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và và hiện thực hóa cam kết đưa phát thải ròng về 0 (Net Zero) vào năm 2050. Xung quanh vấn đề này, phóng viên TTXVN đã phỏng vấn ông Nguyễn Phúc Tuệ, Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty Khí Việt Nam (PV GAS) - đơn vị dẫn đầu ngành công nghiệp khí của PetroVietnam và doanh nghiệp duy nhất vận hành hệ thống chuỗi giá trị LNG hoàn chỉnh tại Việt Nam.

Phóng viên: Xin ông cho biết nhu cầu tiêu thụ LNG cho sản xuất điện trong nước hiện nay như thế nào?

Ông Nguyễn Phúc Tuệ: Theo Quy hoạch Điện VIII (ban hành tháng 05/2023), từ nay đến năm 2030, Việt Nam sẽ đầu tư xây dựng 23 dự án điện khí, trong đó có 10 dự án sử dụng nguồn khí khai thác trong nước với tổng công suất 7.900 MW và 13 dự án sử dụng khí LNG nhập khẩu với tổng công suất khoảng 22.400 MW, do đó nhu cầu tối đa lên đến 15 triệu tấn LNG/năm.

Tuy nhiên, việc triển khai thực tế các dự án điện khí LNG còn gặp nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau nên tiến độ và nhu cầu LNG đang thấp hơn đáng kể so với kế hoạch. Theo đánh giá của PV GAS, dự kiến đến năm 2030, nhu cầu LNG cả nước sẽ đạt khoảng 3 - 4 triệu tấn/năm. Tỷ trọng điện khí LNG sẽ tăng dần qua các năm và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong cơ cấu nguồn điện, phục vụ nhu cầu tăng trưởng điện năng để phát triển kinh tế xã hội đất nước. Thực tế cũng cho thấy những năm gần đây, nguồn khí nội địa đang suy giảm sản lượng nhanh hơn dự báo. Vì vậy, PV GAS đang tập trung đầu tư các dự án kho cảng LNG nhập khẩu để đảm bảo nguồn cung cho sản xuất điện và các ngành sản xuất công nghiệp khác.

 

Phóng viên: Việc giảm thuế nhập khẩu LNG sẽ tác động như thế nào đến giá bán LNG của PV GAS cho các nhà máy điện khí LNG và các hộ tiêu thụ công nghiệp lớn tại Việt Nam?

Ông Nguyễn Phúc Tuệ: Kể từ năm 2023 đến nay, với mục tiêu tìm kiếm nguồn hàng ổn định, cạnh tranh phục vụ sản xuất điện, PV GAS đã và đang nhập khẩu LNG từ các nước có Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) với Việt Nam như Brunei, Malaysia, Indonesia với thuế nhập khẩu bằng 0%. Đối với những quốc gia ở trong WTO nhưng không có FTA với Việt Nam, thuế suất nhập khẩu sẽ được giảm từ 5% xuống 2%, qua đó tăng sức cạnh tranh của các nguồn LNG này.

Về dài hạn, việc giảm thuế nhập khẩu LNG sẽ giúp PV GAS mở rộng và tiếp cận danh mục nguồn LNG đa dạng hơn từ các quốc gia chưa có FTA với Việt Nam, hỗ trợ công tác tìm kiếm nguồn LNG với giá cả cạnh tranh phục vụ nhu cầu trong nước. Với nguồn LNG đa dạng, chi phí của các nhà máy điện sử dụng LNG và các hộ tiêu thụ LNG cho công nghiệp sẽ được tối ưu, người dân và người tiêu dùng cuối sẽ được hưởng lợi.

Phóng viên: Để đảm bảo nguồn cung LNG đáp ứng nhu cầu phát điện và sản xuất công nghiệp với giá bán ổn định, PV GAS đã triển khai các giải pháp gì?

Ông Nguyễn Phúc Tuệ: Về cơ sở hạ tầng, PV GAS sở hữu hạ tầng LNG hoàn chỉnh tại phía Nam với kho cảng LNG Thị Vải có công suất 7,7 triệu m3/ngày chưa kể phần khí nội địa; Kho tái hóa khí LNG nổi (FSRU) dự kiến đưa vào vận hành từ năm 2026; triển khai đầu tư nâng công suất Kho LNG Thị Vải lên 3 triệu tấn/năm, dự kiến đưa vào vận hành từ năm 2029.

Đối với khu vực khác, PV GAS đang triển khai 3 kho cảng LNG trung tâm tại Nam Trung Bộ (Sơn Mỹ, Bình Thuận), Bắc Trung Bộ và Bắc Bộ với công suất từ 3-6 triệu tấn LNG/năm cho mỗi trung tâm.

Bên cạnh đó, PV GAS đã đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu, kinh doanh trên thị trường quốc tế: ký các hợp đồng khung mua bán LNG với các nhà cung cấp LNG lớn trên thế giới như Shell, Total, Petronas, Sumitomo, PetroChina... và một số nhà cung cấp LNG của Hoa Kỳ như Cheniere Marketing International LLP, Exxon Mobil Asia Pacific; tổ chức lựa chọn thành công các nhà cung cấp để cung cấp hiệu quả, kịp thời các chuyến tàu LNG phục vụ nhu cầu sản xuất điện, đặc biệt trong các giai đoạn cao điểm mùa khô năm 2024 và 2025.

Đặc biệt trong năm 2024, PV GAS đã cung cấp khí LNG tái hóa cho Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) với mức giá thấp hơn giá LNG thế giới trung bình khoảng 15%, thể hiện nỗ lực của PV GAS trong việc cung cấp LNG để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và tiếp tục khẳng định vai trò dẫn đầu của PV GAS trong ngành công nghiệp khí của Việt Nam.

Phóng viên: Thưa ông, ngoài việc giảm thuế nhập khẩu LNG, Chính phủ cần có thêm chính sách gì để thúc đẩy việc triển khai các dự án LNG nhập khẩu, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và hiện thực hoá cam kết Net Zero vào năm 2050?

Ông Nguyễn Phúc Tuệ: Đối với chính sách phát triển cơ sở hạ tầng nhập khẩu LNG, chúng tôi cho rằng cần có cơ chế ưu tiên phát triển các kho LNG trung tâm (LNG Hub) với công suất lớn, cung cấp khí LNG tái hóa cho các nhà máy điện xung quanh bằng hệ thống đường ống, giúp giảm giá thành sản xuất điện, đảm bảo an ninh năng lượng cho quốc gia.

Về thu xếp nguồn và tiêu thụ LNG, cần có cơ chế mua LNG tập trung, dài hạn cho các nhà máy điện khí LNG với khối lượng phù hợp với thông lệ mua bán LNG quốc tế để có thể đảm bảo nguồn cung LNG ổn định, dài hạn và cạnh tranh. Ngoài ra, việc hoàn thiện đồng bộ cơ chế bao tiêu LNG nhập khẩu phục vụ sản xuất điện là rất quan trọng để có thể thúc đẩy việc triển khai các dự án điện LNG, góp phần bổ sung nguồn điện “xanh” quan trọng cho hệ thống, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, thúc đẩy tiến trình chuyển dịch năng lượng cũng như góp phần hiện thực thực hóa cam kết Net Zero của chính phủ Việt Nam vào năm 2050.

Phóng viên: Xin cảm ơn ông!

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục