Khu công nghiệp sinh thái: Từ giải pháp xanh đến lợi thế cạnh tranh

16:11' - 23/07/2025
BNEWS Phát triển khu công nghiệp sinh thái không chỉ là một xu thế tất yếu trong bối cảnh toàn cầu thúc đẩy tăng trưởng xanh và chuyển đổi năng lượng mà còn là cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Chuyển đổi sang khu công nghiệp sinh thái, qua 4 năm có hơn 900 cơ hội giúp tiết kiệm 2,6 triệu USD mỗi năm. Đây là con số ví dụ được Tiến sỹ Nguyễn Trâm Anh – Quản lý Dự án Quốc gia, Chương trình GEIPP Việt Nam (do SECO tài trợ và UNIDO phối hợp với Bộ Kế hoạch Đầu tư trước đây nay là Bộ Tài chính thực hiện) dẫn chứng về việc chuyển đổi sang mô hình khu công nghiệp sinh thái đang mang lại những tác động tích cực đối với ngành công nghiệp Việt Nam từ một chương trình cụ thể.

Theo bà Trâm Anh, sau 4 năm triển khai, Chương trình GEIPP Việt Nam đã xác định hơn 900 cơ hội khu công nghiệp sinh thái tại 90 doanh nghiệp, trong đó trên 400 cơ hội đã được thực hiện và hơn 200 cơ hội đang trong quá trình lên kế hoạch. Những giải pháp này giúp tiết kiệm tới 2,6 triệu USD mỗi năm thông qua việc giảm đáng kể mức tiêu thụ tài nguyên và nguyên vật liệu. Hiện có 6 khu công nghiệp đang được GEIPP Việt Nam hỗ trợ chuyển đổi theo mô hình khu công nghiệp sinh thái gồm: Amata, DEEP C, Nam Cầu Kiền, VSIP, Hiệp Phước và Tân Đô.

 

Con số và dẫn chứng này là minh chứng thuyết phục để thúc đẩy việc phát triển khu công nghiệp sinh thái mà Việt Nam đang hướng tới. Bởi đây không chỉ là một xu thế tất yếu trong bối cảnh toàn cầu thúc đẩy tăng trưởng xanh và chuyển đổi năng lượng mà còn là cơ hội chiến lược để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

PGS. TS Bùi Mạnh Hùng – Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội phân tích, Việt Nam có cơ hội lớn để khẳng định vị thế trong dòng chảy đầu tư toàn cầu nếu biết đón đầu xu hướng và đầu tư đúng hướng. Phát triển khu công nghiệp sinh thái tại Việt Nam không chỉ là xu hướng mà còn điều kiện tiên quyết, là cơ hội chiến lược cho các chủ đầu tư và nhà đầu tư trong bối cảnh yêu cầu toàn cầu về phát triển bền vững ngày càng gia tăng.

Dù còn nhiều thách thức về chi phí, công nghệ, quy mô và pháp lý, tiềm năng kinh tế - xã hội và môi trường, nhưng với sự hỗ trợ từ chính phủ, các tổ chức quốc tế, khu công nghiệp sinh thái có thể trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xanh, bền vững của Việt Nam, đồng thời nâng cao vị thế cạnh tranh trên bản đồ đầu tư toàn cầu.

Đồng quan điểm, PGS. TS Lưu Đức Hải (Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đô thị và Phát triển Hạ tầng) khẳng định, khu công nghiệp sinh thái không chỉ là một mô hình nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và nguyên liệu theo nguyên tắc kinh tế tuần hoàn, mà đây còn là công cụ quan trọng để thực hiện cam kết giảm phát thải và mục tiêu tăng trưởng xanh của quốc gia.

Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) định nghĩa khu công nghiệp sinh thái là một cộng đồng doanh nghiệp cùng chia sẻ và tái sử dụng tài nguyên, hướng đến lợi ích kinh tế – xã hội – môi trường - ông Hải dẫn chứng. Hiện ở Việt Nam có hơn 430 khu công nghiệp với tổng diện tích đất công nghiệp gần 130.000 ha, nhưng chỉ 1–2% đang triển khai chuyển đổi theo mô hình sinh thái.

Về các khung pháp lý liên quan, ông Nguyễn Việt Hưng - Phòng Quản lý Khu Kinh tế, Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Tài chính) cho biết, Nghị định số 35/2022/NĐ-CP của Chính phủ Quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế và Thông tư số 05/2025/TT-BKHĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (cũ) Hướng dẫn xây dựng khu công nghiệp sinh thái đã hoàn thiện các quy định pháp lý, bổ sung khái niệm, chính sách hỗ trợ, tiêu chí xác định khu công nghiệp sinh thái và các ưu đãi liên quan.

Thậm chí, Thông tư 05 đã hướng dẫn chi tiết về cộng sinh công nghiệp, tuần hoàn nước và quy trình chứng nhận khu công nghiệp sinh thái. Còn theo Nghị định 35, tiêu chí khu công nghiệp sinh thái yêu cầu nhà đầu tư phát triển hạ tầng tuân thủ pháp luật, cung cấp đầy đủ dịch vụ cơ bản, giám sát đầu vào/đầu ra, báo cáo hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn.

Theo đó, đối với doanh nghiệp trong khu công nghiệp, tối thiểu 20% doanh nghiệp thuê đất phải áp dụng giải pháp sử dụng hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch, đồng thời có ít nhất một hoạt động cộng sinh công nghiệp. Khu công nghiệp sinh thái cần đảm bảo tỷ lệ đất cây xanh, giao thông, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội dùng chung đạt tối thiểu 25% tổng diện tích quy hoạch, cùng với giải pháp nhà ở và công trình xã hội cho người lao động...

Về chính sách hỗ trợ và ưu đãi, khu công nghiệp sinh thái và doanh nghiệp sinh thái được miễn tiền thuê đất, ưu tiên vốn tín dụng ưu đãi, được đưa vào danh mục dự án ưu đãi đầu tư và có thể vay vốn từ các quỹ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, quỹ đổi mới công nghệ, ngân hàng phát triển, cũng như các quỹ nhà nước và quốc tế...

Tuy nhiên, theo ông Hưng, dù có các ưu đãi trên giấy tờ, việc triển khai thực tế còn gặp khó khăn do Luật Thuế chưa có hướng dẫn cụ thể để hiện thực hóa các ưu đãi này, dẫn đến rào cản về chi phí đầu tư ban đầu cao...

Với các khó khăn hiện hữu, PGS.TS Bùi Mạnh Hùng cho rằng, Việt Nam cần sớm xây dựng Luật Khu công nghiệp riêng; trong đó thiết lập một khung pháp lý hoàn chỉnh và đồng bộ cho cả hai loại hình khu công nghiệp truyền thống chuyển đổi và khu công nghiệp sinh thái thành lập mới. Khung pháp lý cũng cần phân định rõ trách nhiệm giữa các cấp quản lý, đơn giản hóa thủ tục, và định hướng rõ về quy hoạch, đầu tư, cộng sinh công nghiệp, sử dụng tài nguyên và tiêu chuẩn môi trường.

“Phát triển khu công ghiệp sinh thái tại Việt Nam không chỉ là một xu hướng phù hợp với thời đại, mà còn là cơ hội chiến lược để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, đáp ứng yêu cầu hội nhập và chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu” - ông Hùng nhấn mạnh.

Các chuyên gia cho rằng, cần có giải pháp trọng tâm nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn hiện hữu trong việc phát triển khu công nghiệp sinh thái hiện nay. Trước tiên là cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý đồng bộ, thống nhất – tạo nền tảng rõ ràng để triển khai mô hình khu công nghiệp sinh thái trên diện rộng. Bên cạnh đó, việc xây dựng và ban hành hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật riêng cho các khu công nghiệp sinh thái là điều cấp thiết để bảo đảm tính minh bạch, khả thi và hiệu quả trong đánh giá, công nhận.

Cùng đó, cần trao quyền thực chất cho các nhà đầu tư, đi kèm với chính sách hỗ trợ mạnh mẽ về tài chính, tín dụng xanh, ưu đãi thuế và tiếp cận công nghệ hiện đại. Chính phủ và chính quyền địa phương cũng được khuyến nghị chuyển đổi tư duy quản lý – từ mô hình hành chính, kiểm soát sang mô hình đồng hành, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp triển khai các dự án sinh thái.

Đồng thời, việc nâng cao nhận thức xã hội về mô hình công nghiệp sinh thái cũng rất quan trọng và không chỉ thực hiện đối với cộng đồng doanh nghiệp mà ngay trong các cấp hoạch định chính sách và người dân. Qua đó, tạo sự đồng thuận và nền tảng vững chắc cho quá trình chuyển đổi.

Phát triển khu công nghiệp sinh thái không chỉ đơn thuần là một mô hình kỹ thuật mà là một chiến lược kinh tế – xã hội – môi trường mang tính sống còn. Việc hình thành khu công nghiệp sinh thái không chỉ giúp ngành công nghiệp Việt Nam duy trì sức cạnh tranh trong bối cảnh quốc tế đang siết chặt tiêu chuẩn xanh, mà còn tạo nền tảng cho một nền sản xuất thông minh, tuần hoàn, phù hợp với định hướng tăng trưởng xanh.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục