Làm rõ nguyên nhân để tìm giải pháp khắc phục những tồn tại trong ngành điện

13:38' - 19/06/2023
BNEWS BNEWS/TTXVN xin giới thiệu bài viết của ông Đào Văn Hưng, Nguyên Chủ tịch Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) để có thêm góc nhìn và kinh nghiệm về vấn đề đầu tư nguồn điện và lưới truyền tải điện.

BNEWS/TTXVN xin giới thiệu bài viết của ông Đào Văn Hưng, Nguyên Chủ tịch Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) để có thêm góc nhìn và kinh nghiệm về vấn đề đầu tư nguồn điện và lưới truyền tải điện qua các Tổng sơ đồ phát triển điện các thời kỳ; làm rõ nguyên nhân, đề xuất giải pháp khắc phục những tồn tại trong ngành điện hiện nay.

Dưới đây là nội dung bài viết:

Ngành Điện Việt Nam được xây dựng và phát triển dựa trên các Tổng sơ đồ điện (TSĐ). Đây là cách làm bài bản, khoa học, do một Viện chuyên ngành tiến hành khảo sát nhu cầu điện từng giai đoạn 5-10 năm của từng ngành kinh tế, từng khu đô thị, theo qui hoạch phát triển kinh tế, các khu công nghiệp, phát triển đô thị, nông thôn, của từng vùng miền.

Căn cứ quan trọng nhất là Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc từng nhiệm kỳ đều có ghi cụ thể định hướng phát triển Điện lực từng thời kỳ. Các cơ quan chức năng thẩm định kỹ dự thảo TSĐ điện, lấy ý kiến của các địa phương. Sau khi thống nhất cao, trình Chính phủ ký ban hành TSĐ điện qua các giai đoạn. Nguyên tắc xây dựng TSĐ điện là phải cân bằng cung cầu điện và có dự phòng 10-15%. Đến nay ngành điện Việt Nam đã thực hiện qua 7 TSĐ điện.

Được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, sự ủng hộ của nhân dân, ngành Điện (bao gồm EVN và các đơn vị ngoài EVN) đã vượt qua nhiều khó khăn để duy trì việc cung cấp điện cho phát triển kinh tế và đời sống dân sinh.

Trước hết phải kể đến nguồn vốn của Nhà nước cấp cho giai đoạn đầu (từ năm 1993 doanh nghiệp tự vay, tự trả có bảo lãnh của Chính phủ) với sự giúp đỡ của Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), tổ chức SIDA của Thụy Điển, vốn ODA & vay thương mại của nhiều nước như Nhật Bản, Trung Quốc, Nga, Đức, Pháp, Hàn Quốc....

Đặc biệt là sự hỗ trợ của các ngân hàng trong nước như Ngân hàng Thương mại cổ phần  Công Thương Việt Nam (Vietinbank), Ngân hàng Thương mại cổ phần  Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank),  Ngân hàng Thương mại cổ phần  Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) …

Chính nhờ sức mạnh tổng hợp đó, nên trong giai đoạn 2000- 2020, ngành Điện phát triển rất nhanh, từ chỗ không đủ điện cho các bệnh viện, trường học, cắt điện luân phiên, nhà máy xí nghiệp phải đóng cửa; Điện năng bình quân đầu người trước năm 2000 chỉ khoảng 200-500 kWh đầu người; Chỉ số điện năng lúc đó gần như thấp nhất trong 10 nước ASEAN thì sau 20 năm, điện bình quân đầu người tăng lên 2.500 kWh, gấp hơn 4 lần so với năm 2020. Đặc biệt, nguồn điện cung cấp điện ổn định trong hơn mười năm và có lãi.

Trong giai đoạn này, đã có 426 nhà máy điện của các nhà đầu tư khác nhau được xây dựng, đưa công suất đặt lên đến 79.000 MW, đứng trong nhóm 29 nước có điện lực phát triển nhất của thế giới và đứng đầu trong ASEAN.

Giai đoạn 2000-2020, như cầu điện tăng bình quân 10-14%/năm. Trước tình hình đó EVN đề xuất Chính phủ điều chỉnh TSĐ điện VI, xin chuyển các nhà máy điện dự kiến xây dựng sau năm 2010 trong TSĐ điện VI lên xây dựng sớm hơn, nhờ vậy mới kịp đáp ứng nhu cầu điện.

 

Thực hiện TSĐ điện VII hiệu chỉnh từ năm 2010 -2020, có xét đến năm 2030, EVN được giao xây dựng 21 nhà máy điện, tổng công suất phải lắp đặt 8.615 MW, chủ yếu là các dự án qui mô lớn như thủy điện Sơn La, Lai Châu….

Đến nay EVN đã xây dựng xong và đưa vào vận hành 17 nhà máy. Riêng 2 nhà máy Omon 3&4 mua khí lô B để phát điện cung cấp cho miền Nam, đã lập xong báo cáo nghiên cứu khả thi từ năm 2012 nhưng do dự án khí lô B (có liên quan đến nhà đầu tư nước ngoài không thuộc thẩm quyền điều hành của EVN) bị dừng nên chưa thể xây dựng được. Năm 2022, EVN lỗ quá lớn, khả năng vay vốn đầu tư khó nên dự kiến chuyển cho đơn vị khác làm chủ đầu tư.

Về cơ bản EVN đã hoàn thành nhiệm vụ được giao trong TSĐ điện VII và VII hiệu chỉnh. Đến nay chỉ còn 2 dự án thủy điện mở rộng, qui mô nhỏ, đang khẩn trương xây dựng như thủy điện Hoà Bình mở rộng 480 MW bị sự cố địa chất nên năm 2025 sẽ xây dựng xong và thủy điện Yaly mở rộng 360 MW, đến năm 2024 sẽ vào vận hành.

Còn các dự án giao cho các nhà đầu tư ngoài EVN đến năm 2023 có 110 danh mục nhà máy với tổng công suất khoảng 34.000 MW. Đến nay các nhà đầu tư ngoài EVN đã thực hiện xong và đưa vào vận hành tổng công suất đặt khoảng 8.000 MW, góp phần quan trọng trong cung cấp điện. Như vậy còn trên 30-40 nhà máy, với tổng công suất chưa xây dựng là khoảng 26.000 MW.

Trong những năm gần đây, nhu cầu điện tăng liên tục (trừ 2 năm COVID) do mấy nguyên nhân: Nhờ chính sách mở cửa của Nhà nước, khuyến khích các cơ sở sản xuất trong nước phát triển; Do giá điện Việt Nam thấp nên nhiều nhà đầu tư nước ngoài đem các thiết bị tiêu thụ nhiều điện sang Việt Nam lắp đặt như các nhà máy sản xuất sắt thép, hóa chất, xi măng, phân bón …

Chính vì thế hệ số đàn hồi của Việt Nam kém (năm 2012 là 2,27 lần; 2021 là1,49 lần) trong khi các nước khác xấp xỉ 1 hoặc < 1). Tức là hiệu quả sử dụng điện của Việt Nam thấp, các nước sử dụng 1 điện thì ra 1 giá trị sản phẩm, còn ta thì từ 1,49 đến 2,27 điện mới ra 1 giá trị sản phẩm.

Một nguyên nhân nữa, do điều kiện sống nhân dân được cải thiện đáng kể nên hơn 27 triệu hộ dân sử dụng các thiết bị dùng điện ngày càng nhiều. Hầu hết các hộ gia đình đều bỏ các nguồn nhiên liệu truyền thống như củi, rơm rạ, than tổ ong, ga chuyển sang dùng điện vì rẻ, thuận tiện và sạch, đun nấu nhanh.

Về giải pháp khắc phục thiếu điện, đối với El Nino, theo chuỗi thủy văn thì sau vài chục năm xuất hiện 1 lần cũng chỉ diễn ra trong thời gian ngắn. Kinh nghiệm 1 số quốc gia có nhiều thủy điện như Nauy gần 100%, New Zealand khoảng 90%, Canada khoảng 70%  thì họ phải xây dựng nguồn điện dự phòng. Ở những nước này dân sẵn sàng trả tiền phần công suất dự phòng đấy nhưng cũng rất đắt. Theo tính toán sơ bộ nếu xây dựng 1 nhà máy chạy dầu DO công suất 4.000 MW bù đắp công suất thiếu hụt do El Nino có tổng chi phí khoảng 4 tỷ USD, giá điện khoảng 18 cent/kWh.

Triển khai nhanh thị trường điện cạnh tranh cũng là một giải pháp quan trọng để thúc đẩy đầu tư. EVN là doanh nghiệp Nhà nước được giao nhiệm vụ cấp điện cho dân nên phải tích cực xây dựng nguồn và lưới điện theo đúng TSĐ điện và mua điện kể cả giá cao. Cụ thể giá điện mặt trời 9,35 cent/kWh = 2.200 đồng/1kWh, trong khi giá bán lẻ điện bình quân là 1.882 đồng/kWh, lỗ 318 đồng/kWh và khi thiếu điện phải huy động hết tất cả các nguồn điện chạy dầu DO&FO, với giá thành từ 2.500-4.000 đồng/kWh.

Nhưng với các doanh nghiệp ngoài EVN thì hoàn toàn khác. Phải giải cho được bài toán lợi nhuận thì họ mới làm, đó là lẽ đương nhiên. Bởi vấn đề lớn mà các chủ đầu tư thường hay than vãn đó là việc đảm bảo lợi nhuận cho doanh nghiệp khi giá điện đầu ra thấp quá, không có lãi thậm chí lỗ; trong đó có 2 nhà máy BOT chạy than nhập khẩu chào giá 14-18 cent/kWh, giá quá cao, nhiều lúc phải dừng. Nếu là doanh nghiệp Nhà nước thì sẽ bị xử lý trách nhiệm. Cụ thể hơn là giá đầu ra phải theo thị trường, vấn đề này phải được người dùng điện đồng thuận, theo nguyên tắc lợi ích hài hòa.

Về Phương án xây dựng đường dây tuyền tải điện, trước đây Chính phủ đã trực tiếp chỉ đạo xây dựng đường dây siêu cao áp 500kV đầu tiên. Đây là công trình vĩ đại với nhiều nghĩa, thể hiện tầm nhìn xa trông rộng, ý chí thép, quyết đoán nhờ vậy cứu được thiếu điện miền Nam. EVN nhờ đó đã xây dựng thành công thêm 2 đường dây 500kV mạch 2&3 đang phát huy tác dụng rất tốt.

Tuy nhiên, với diễn biến phức tạp về truyền tải vừa qua cho thấy cần nghĩ đến một phương án mới, có thể nghiên cứu xây dựng sớm đường dây siêu cao áp một chiều 800-1000 kV để hỗ trợ điện Bắc- Nam. Tính toán sơ bộ tổng chi phí cho đường dây này một chiều khoảng 4,5 tỷ USD, tải được công suất khoảng 6.000 MW. Sau này theo tính toán TSĐ điện VIII, khi công suất hệ thống điện lên đến 150.000 MW (vào năm 2030), thì tất yếu phải có các đường dây này.

Với các dự án nguồn điện chưa được xây dựng trong TSĐ điện VII và VII hiệu chỉnh, cơ quan chức năng cần tổ chức hội thảo lắng nghe ý kiến chủ đầu tư để xem đâu là những vấn đề bị tắc nghẽn từ lâu mà chưa có giải pháp, đâu là những vấn đề thuộc trách nhiệm chủ quan của chủ đầu tư để từ đó có giải pháp xử lý dứt điểm từng dự án./.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục