Tình thế tiến thoái lưỡng nan của ECB trong vấn đề lạm phát

06:30' - 11/05/2023
BNEWS Mỗi khi Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) Christine Lagarde bắt đầu một vai trò mới, dường như một cuộc khủng hoảng lớn sẽ xảy ra.

Nhiều người đang ví von rằng Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) Christine Lagarde cần phải ngừng thay đổi công việc, bởi vì mỗi khi bà Lagarde bắt đầu một vai trò mới, dường như một cuộc khủng hoảng lớn sẽ xảy ra.

Ngay sau khi trở thành Bộ trưởng Tài chính Pháp vào năm 2007, bà Lagarde nhận thấy mình đang xử lý cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, và cuối cùng bà đã giành được nhiều lời khen ngợi.

Sau khi được bổ nhiệm làm người đứng đầu Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) vào năm 2011, cuộc khủng hoảng nợ Khu vực đồng euro (Eurozone) leo thang. Bất chấp những lời chỉ trích ban đầu vì đứng về phía các chính sách thắt lưng buộc bụng do Đức lãnh đạo, bà Lagarde lại được ngưỡng mộ nhờ kỹ năng ngoại giao điềm tĩnh và đóng vai trò quan trọng trong việc tìm kiếm sự đồng thuận về gói cứu trợ Hy Lạp năm 2012 để cứu đồng euro.

Trong 3 năm rưỡi kể từ khi bà lên nắm quyền tại ECB, nền kinh tế châu Âu đã hứng chịu hàng loạt "giông bão", bao gồm đại dịch COVID-19 và cuộc xung đột Nga-Ukraine. Theo The Financial Times, hiện có nhiều quan điểm trái chiều về việc liệu bà Lagarde có đang làm tốt công việc chèo lái ECB ra khỏi các cuộc khủng hoảng đang xảy ra hay không.

Trong các cuộc phỏng vấn của tờ The Financial Times với hàng chục thành viên hiện tại và trước đây của Hội đồng quản lý thiết lập lãi suất của ECB trong vài tuần qua, cũng như một số nhà kinh tế, nhà tài chính và nhà phân tích theo sát ngân hàng trung ương, hầu hết trong số họ ca ngợi bà Lagarde vì đã xây dựng lại sự đoàn kết giữa các nhà hoạch định chính sách tiền tệ của ECB và ngăn chặn những cú sốc kinh tế gần đây dẫn đến khủng hoảng tài chính. Nhưng những người chỉ trích phàn nàn rằng, bà Lagarde thiếu chuyên môn kinh tế, chậm phản ứng với lạm phát tăng vọt và nên giao tiếp rõ ràng hơn.

Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) và Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) cũng bị đổ lỗi vì đã để lạm phát vượt xa mục tiêu 2%, lên mức cao nhất kể từ vòng xoáy giá cả do những cú sốc giá dầu những năm 1970 gây ra. Nhưng ECB đã chậm hơn Fed hoặc BoE trong việc bắt đầu tăng lãi suất hoặc rút lại gói kích thích tiền tệ khổng lồ mà ngân hàng này đã triển khai trong phần lớn thập kỷ qua, khiến ngân hàng này dễ bị tấn công hơn.

Spyros Andreopoulos, nhà kinh tế tại ngân hàng Pháp BNP Paribas, người đã làm việc cho ECB đến năm 2018, cho biết: "Đối với một tổ chức độc lập, việc đạt được mục tiêu là một phần lớn trách nhiệm giải trình, vì vậy, những sai sót lớn chắc chắn là một vấn đề ngay cả trong những trường hợp đặc biệt". Vẫn chưa có phán quyết nào được đưa ra, và phán quyết cuối cùng có thể phụ thuộc vào việc liệu ECB có phải tạo ra một cuộc suy thoái để giảm lạm phát hay không.

Nhưng theo một nghĩa nào đó, bà Lagarde đang ở trong một môi trường đã quen thuộc. Kể từ khi từ bỏ sự nghiệp thành công là điều hành công ty luật Baker McKenzie của Mỹ để trở thành một Bộ trưởng Tài chính tại quê nhà Pháp, bà Lagarde đã phải đối mặt với những lời chỉ trích từ rất sớm trước khi được đẩy lên sân khấu trung tâm, để giúp xoa dịu một cuộc khủng hoảng toàn cầu. Một số nhà phân tích tin rằng, có sự phân biệt giới tính, đặc biệt là từ các nhà đầu tư. "Những người tham gia thị trường tài chính chủ yếu là nam giới. Điều đó phần nào giải thích điều này".

Câu hỏi hiện nay là liệu bà Lagarde, người nổi tiếng với việc giải quyết vấn đề của châu Âu, có đang phải đối mặt với một "ngọn lửa khó có thể  dập tắt nhanh chóng" hay không. Trong một cuộc thảo luận gần đây với các sinh viên ưu tú của trường École Polytechnique ở Paris, khi nhớ lại việc các đối thủ đã ngừng kêu gọi cô từ chức Bộ trưởng tài chính Pháp sau khi Lehman Brothers sụp đổ vào tháng 9/2008, bà Lagarde nói đùa rằng: "Tôi không nghĩ chính tôi là người gây ra khủng hoảng. Điều khá phổ biến là khi tình hình rất phức tạp, chúng tôi không hài lòng khi trao quyền cai trị cho một người phụ nữ".

Trò chơi đuổi bắt

Tại ECB, những người thân cận với bà Lagarde nói rằng, bà quyết tâm chứng minh những hoài nghi trên là sai, bằng cách chế ngự lạm phát và đưa nền kinh tế Eurozone trở lại bình thường. Bà Lagarde không thể bình luận về câu chuyện này vì ECB sẽ họp trong thời gian tới và các quan chức tránh đưa ra những nhận xét công khai có thể ảnh hưởng đến kỳ vọng về các quyết định chính sách tiền tệ.

Những người trong cuộc nói rằng, bà Lagarde hối hận vì đã dựa quá lâu vào các mô hình dự báo của ECB cho thấy lạm phát chỉ là "tạm thời" và sẽ sớm quay trở lại mức mục tiêu. Bà cũng ước rằng, ECB đã loại bỏ những ràng buộc của "hướng dẫn chuyển tiếp" do người tiền nhiệm Mario Draghi đưa ra, vốn đã trì hoãn việc tăng lãi suất cho đến khi ECB ngừng mua thêm trái phiếu vào tháng 6/2022.

Do những bước đi sai lầm này, ECB đã quyết định ít dựa vào các dự báo của mình, vốn luôn đánh giá thấp mức độ lạm phát sẽ tăng cao và loại bỏ phần lớn hướng dẫn chính thức mà họ đưa ra về các động thái chính sách trong tương lai. Thay vào đó, ECB đã cam kết đặt trọng lượng hơn vào việc liệu giá cơ bản, không bao gồm năng lượng và thực phẩm, có đang chậm lại hay không và chi phí đi vay cao hơn đang siết chặt hoạt động cho vay của ngân hàng và hoạt động kinh tế ở mức độ nào, để xác định động thái lãi suất tiếp theo của nó.

Những thay đổi này có nghĩa là, ECB đã chuyển từ một trong những ngân hàng trung ương ôn hòa nhất thế giới – là một trong số ít ngân hàng cắt giảm lãi suất dưới 0 trong những năm 2010 – trở thành một trong những ngân hàng diều hâu hơn: Dự kiến sẽ tiếp tục tăng lãi suất lâu hơn Fed hoặc BoE.

Otmar Issing, nhà kinh tế trưởng đầu tiên của ECB khi được thành lập vào năm 1998, cho biết: "ECB đã mắc một trong những lỗi dự báo tồi tệ nhất từ trước đến nay về lạm phát. Đó là một hồi chuông cảnh tỉnh, nhưng ECB đã quay đầu và nhanh chóng bắt kịp. Bạn phải cung cấp cho họ tín dụng cho điều đó".

Từng bác bỏ việc giá tiêu dùng khu vực đồng euro tăng đột biến vào cuối năm 2021 như một "cú hích" sẽ sớm qua đi mà không cần tăng lãi suất, bà Lagarde đã áp dụng lập trường kiên quyết hơn kể từ khi xung đột Nga-Ukraine bùng phát, gây ra cuộc khủng hoảng năng lượng và chi phí sinh hoạt. 

ECB đã tăng chi phí đi vay với tốc độ chưa từng thấy, nâng lãi suất tiền gửi từ âm 0,5% vào tháng Bảy năm ngoái lên 3% vào tháng trước. Tại một cuộc họp ở Frankfurt vào ngày 4/5, hội đồng quản trị của ECB được cho là sẽ đồng ý về một mức tăng khác.

Maria Demertzis, Giáo sư chính sách kinh tế tại Viện Đại học châu Âu ở Florence, cho biết: "Họ đã quá muộn để hành động khi chiến tranh Ukraine bắt đầu, giá năng lượng tăng vọt và chắc chắn lạm phát sẽ trở nên nghiêm trọng. Vì vậy, bây giờ họ đang chơi trò đuổi bắt và không thể dễ dàng lùi bước".

Điều lo lắng đối với một số nhà phân tích là ECB đã bị chỉ trích vì phản ứng quá chậm với lạm phát, giờ đây ECB sẽ tăng lãi suất quá cao. Các thành viên hội đồng theo phái ôn hòa đang thúc giục ECB thận trọng trong các quyết định của mình, đồng thời cảnh báo rằng, tỷ lệ tăng chỉ ảnh hưởng đến lạm phát với độ trễ ít nhất một năm.

Silvia Ardagna, nhà kinh tế trưởng châu Âu tại ngân hàng Barclays của Anh, cho biết: "ECB đã bị chỉ trích rất nhiều vì bắt đầu muộn và họ có thể phản ứng bằng cách làm quá mức. Công việc của họ không hề dễ dàng chút nào".

Một số nhà phân tích cho rằng hội đồng sẽ làm chậm tốc độ tăng lãi suất xuống 0,25 điểm phần trăm trong tuần này, phản ánh sự không chắc chắn ngày càng tăng về việc lạm phát sẽ giảm nhanh như thế nào. Nhưng Isabel Schnabel, thành viên diều hâu nhất trong ban điều hành của ECB, người đã trở thành tiếng nói có ảnh hưởng về chính sách, đã nói rằng ECB có thể tăng 0,5 điểm phần trăm nếu dữ liệu ủng hộ điều đó.

Quy mô của động thái có thể phụ thuộc vào các số liệu sẽ được công bố vào 2/5, cho thấy đường đi của lạm phát của Eurozone trong tháng Tư cũng như những gì các ngân hàng trong khối đã nói với ECB về kế hoạch cho vay của họ trong cuộc khảo sát mới nhất về lĩnh vực này.

Hành vi của các ngân hàng đang được ECB theo dõi chặt chẽ vì những bất ổn gần đây trong lĩnh vực này đã gây ra sự sụp đổ của ngân hàng Silicon Valley Bank ở Mỹ và đẩy ngân hàng Credit Suisse (Thụy Sỹ) vào vòng tay của đối thủ UBS. Các ngân hàng của Eurozone cho đến nay đã tỏ ra kiên cường trước những lo lắng - bất chấp sự sụt giảm đáng lo ngại diễn ra trong thời gian ngắn của cổ phiếu Deutsche Bank vào cuối tháng Ba.

Tuy nhiên, biến động này có khả năng làm gia tăng sự thu hẹp nguồn cung tín dụng vốn đã bắt đầu đối phó với chi phí đi vay tăng cao, dẫn đến nhu cầu đối với các khoản thế chấp của khu vực đồng euro giảm kỷ lục trong những tháng cuối năm ngoái. Các nhà kinh tế cho rằng điều này sẽ làm chậm hoạt động kinh tế và giảm lạm phát, giảm mức tăng lãi suất bổ sung mà ECB cần phải làm.

Lorenzo Bini Smaghi, Chủ tịch ngân hàng Pháp Société Générale và cựu thành viên ban điều hành ECB, cho biết: "Sau cú sốc về những gì đã xảy ra, ngày nay các ngân hàng sẽ thận trọng hơn nhiều. Mối lo ngại của tôi là nếu ECB tiếp tục siết chặt hệ thống tài chính quá mức, điều đó có thể dẫn đến khủng hoảng tín dụng."

Những lo ngại này chủ yếu rơi vào những người thiết lập lãi suất khu vực đồng euro, những người đã đẩy mạnh việc tăng lãi suất 0,5 điểm phần trăm vào tháng Ba chỉ một tuần sau khi Silicon Valley Bank sụp đổ và trong khi Credit Suisse vẫn đang đàm phán về một thỏa thuận giải cứu.

Một thành viên hội đồng ECB cho biết: "Các ngân hàng này có xu hướng phóng đại tầm quan trọng của chính họ và cho rằng chúng tôi đang chơi theo giai điệu của họ. Tôi không thấy những lo ngại này thuyết phục chúng ta ít tập trung hơn vào việc chống lạm phát."

Thái độ mạnh mẽ này phản ánh quyết định của bà Lagarde tách mình ra khỏi thị trường tài chính nhiều hơn so với người tiền nhiệm Draghi, người đã giành được sự khen ngợi từ các nhà đầu tư vì hứa sẽ làm "bất cứ điều gì" để cứu đồng euro trong cuộc khủng hoảng nợ một thập kỷ trước.

Stefan Gerlach, cựu Phó Thống đốc Ngân hàng Trung ương Ireland, hiện là nhà kinh tế trưởng tại ngân hàng Thụy Sỹ EFG, cho biết: "Một số người tại ECB dường như nghĩ rằng những gì xảy ra trên thị trường tài chính không thực sự quan trọng. Nhưng tôi nghĩ họ đang đánh giá thấp rủi ro này và nó có thể kết thúc tồi tệ".

Góc nhìn của "con cú"

Sự lạnh lùng của bà Lagarde đối với thị trường tài chính đã tạo ra mối quan hệ lạnh nhạt với các nhà phân tích và nhà đầu tư, những người than vãn về việc bà không được đào tạo về kinh tế, giao tiếp mơ hồ và thậm chí bà có xu hướng đọc lại các tuyên bố chính thức để trả lời các câu hỏi tại các cuộc họp báo.

Các đồng nghiệp nói rằng, Chủ tịch ECB đã chỉ ra rằng, cả Chủ tịch Fed Jerome Powell và Thống đốc BoE Andrew Bailey đều không học kinh tế. Trong khi ông Draghi lấy bằng tiến sĩ kinh tế tại MIT, bà Lagarde đã xem đoạn phim về người tiền nhiệm của mình để thấy rằng ông Draghi cũng đọc nhất nhiều từ những tuyên bố được chuẩn bị trước như bà. Một số nhà quan sát của ngân hàng trung ương cho rằng, đây là tiêu chuẩn kép phân biệt giới tính tại nơi làm việc.

Nhận thấy mình sẽ không thể thống trị các cuộc tranh luận về chính sách tiền tệ, bà Lagarde đã chọn một phong cách lãnh đạo khác với ông Draghi. Tránh xa những nhãn hiệu "diều hâu" hoặc "chim bồ câu", cô ấy tự mô tả mình là một "con cú" ngồi trên cuộc cạnh tranh để tập hợp những người định giá với các quan điểm khác nhau xung quanh một quyết định chính sách chung và sau đó giải thích nó.

Erik Nielsen, Trưởng bộ phận cố vấn kinh tế tại ngân hàng UniCredit của Italy, cho biết: "Bà Lagarde không lãnh đạo theo cùng một cách, mà có vẻ như bà ấy quản lý hội đồng quản trị. Bà ấy không có ý tưởng định sẵn về nơi sẽ đi; nhưng có một đôi tai chính trị đặc biệt tốt, đọc tình huống và quản trị tốt để đưa đến một quyết định".

Tinh thần tập thể được khôi phục lại khi bà Lagarde tiếp quản ECB. Nhiều thành viên hội đồng đã công khai công kích quyết định cắt giảm lãi suất và khởi động lại hoạt động mua trái phiếu tại một trong những cuộc họp hội đồng cuối cùng của ông Draghi.

Các thành viên hội đồng ca ngợi khả năng của bà Lagarde trong việc giành được sự ủng hộ rộng rãi cho các thỏa hiệp được xây dựng cẩn thận ngay cả khi họ không phải lúc nào cũng đồng ý với mọi yếu tố. "Christine Lagarde đang làm một công việc xuất sắc," Joachim Nagel, người đứng đầu ngân hàng trung ương Đức, nói với tờ The Financial Times. "Bà ấy tập hợp những người có quan điểm khác nhau lại với nhau để đạt được những quyết định đúng đắn về một chính sách tiền tệ chung".

Để xây dựng sự đoàn kết, bà Lagarde tổ chức một cuộc gọi thường xuyên với những người đứng đầu ngân hàng trung ương Đức, Pháp, Italy, Tây Ban Nha và Hà Lan để thảo luận về những động thái lớn trước mỗi cuộc họp chính sách, trong khi bà hoặc nhà kinh tế trưởng Philip Lane cũng liên lạc với 15 thống đốc quốc gia khác.

Tuy nhiên, một số thành viên hội đồng cho rằng nỗ lực đoàn kết của bà đang che giấu những thay đổi tinh vi trong cuộc tranh luận của họ. Pierre Wunsch, người đứng đầu ngân hàng trung ương của Bỉ, nói với tờ The Financial Times rằng: "Nếu có quá nhiều sự đồng thuận thì vẫn có chỗ để thảo luận. Tôi nghĩ rằng các cuộc thảo luận loại bỏ thông tin liên quan khỏi thị trường."

Những người theo dõi ECB cho biết, điều này giải thích một phần lý do tại sao bà Lagarde đôi khi gây bất ngờ cho thị trường. Jens Eisenschmidt, nhà kinh tế trưởng về châu Âu tại ngân hàng Morgan Stanley, người đã làm việc tại ECB cho đến năm ngoái, cho biết: "Thật khó để cùng thống nhất một tiếng nói khi có nhiều quan điểm khác nhau. Điều này khiến thị trường khó biết được bước tiếp theo của họ là gì và độ chính xác của thông tin liên lạc có thể bị ảnh hưởng."

Thời điểm dừng lại

ECB càng tiến gần đến việc tạm dừng tăng lãi suất thì bà Lagarde càng khó duy trì sự thống nhất. Ngay trong tháng 3/2023, đã có một số người bất đồng chính kiến lo lắng rằng, việc tăng lãi suất là rủi ro vì tình trạng hỗn loạn ngân hàng. Quyết định cuối cùng của ECB đã bị tấn công bởi cả các chính trị gia cánh hữu của Italy và các quan chức công đoàn châu Âu thiên tả.

Sven Jari Stehn, nhà kinh tế trưởng về châu Âu tại ngân hàng Mỹ Goldman Sachs, cho biết: "Việc đồng ý về nhu cầu tăng lãi suất lên mức hiện tại là tương đối dễ dàng, nhưng sẽ khó đạt được sự đồng thuận hơn khi bạn có nhiều luồng ý kiến trái chiều hơn hiện nay".

Ông Stehn hy vọng bà Lagarde sẽ sử dụng kết hợp các công cụ khác để giành được sự ủng hộ đối với các quyết định về lãi suất, chẳng hạn như cam kết tăng thêm nữa, hứa sẽ không cắt giảm chúng trong một khoảng thời gian sau khi tạm dừng hoặc đồng ý tăng tốc độ thu hẹp bảng cân đối kế toán của ECB.

Nền kinh tế Eurozone tăng trưởng 0,1% trong quý đầu tiên của năm 2023, yếu hơn dự báo nhưng là sự cải thiện từ tình trạng trì trệ vào cuối năm 2022. Các nhà kinh tế cho rằng sự phục hồi này, bất chấp cú sốc năng lượng năm ngoái và chi phí đi vay tăng mạnh, phản ánh một sự xây dựng - tăng tiết kiệm vượt mức trong thời kỳ đại dịch, sự thúc đẩy từ các khoản trợ cấp hào phóng của chính phủ và sự phục hồi của thương mại toàn cầu.

Trong khi lạm phát toàn phần đã giảm trong 5 tháng liên tiếp kể từ khi đạt mức kỷ lục 10,6% trong Eurozone vào tháng 10/2022, khả năng phục hồi của nền kinh tế cùng với tỷ suất lợi nhuận và tiền lương tăng đã khiến áp lực giá cơ bản tăng lên sau khi loại trừ năng lượng và thực phẩm.

Các ngân hàng trung ương kỳ cựu đồng cảm với thách thức của ECB trong việc quyết định thời điểm ngừng tăng lãi suất, điều mà họ mong đợi sẽ kiểm tra giới hạn kỹ năng lãnh đạo của bà Lagarde.

Issing, một trong những người sáng lập Eurozone, cho biết: "Cuộc xung đột ở Ukraine, quá trình toàn cầu hóa đã chậm lại, chuỗi cung ứng đang thay đổi - chỉ đề cập đến một số yếu tố". Đó là một tình huống vô cùng bất ổn, rất khó diễn giải một cách chính xác. Có nguy cơ lạm dụng nó, nhưng nguy cơ lạm phát biến mất còn quan trọng hơn"./.                                      

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục