Xuất khẩu gạo chất lượng cao: Cơ hội cho doanh nghiệp Việt

16:36' - 27/04/2017
BNEWS Theo các doanh nghiệp, hiện có một số thị trường như Hong Kong (Trung Quốc), Singapore và một số nước Châu Phi đang có nhu cầu nhập khẩu gạo thơm khá mạnh.
 
Kho gạo của nhà máy Thoại Sơn, Tập đoàn Lộc Trời. Ảnh: Hồng Nhung-TTXVN

Dù xuất khẩu gạo từ đầu năm 2017 đến nay gặp nhiều khó khăn, giảm mạnh cả số lượng và trị giá so với cùng kỳ năm ngoái, thế nhưng các doanh nghiệp cho rằng vẫn còn phân khúc thị trường mang lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh, xuất khẩu mặt hàng này.

Gạo thơm hút hàng

Theo các doanh nghiệp, hiện có một số thị trường như Hong Kong (Trung Quốc), Singapore và một số nước Châu Phi đang có nhu cầu nhập khẩu gạo thơm khá mạnh.

Nhờ cung ứng sản phẩm chất lượng, đảm bảo an toàn thực phẩm, các doanh nghiệp không những xuất khẩu ổn định mà giá bán luôn duy trì ở mức cao.

Ông Nguyễn Văn Đôn, Giám đốc Công ty TNHH Việt Hưng (Tiền Giang) chia sẻ, từ đầu năm đến nay, doanh nghiệp này đã xuất khẩu được khoảng 35.000 tấn, chủ yếu là các loại gạo thơm và nếp.

Ngay cả khi giá gạo nội địa hiện đang sụt giảm, giá xuất khẩu các loại gạo thơm của doanh nghiệp vẫn ổn định.

Cụ thể, gạo ST21 được chào bán 520 USD/tấn, OM4900 có giá 490 USD/tấn, OM5451 là 460 USD/tấn, còn nếp thì dao động 440-460 USD/tấn, tùy từng địa phương.

Việt Nam đang có lợi thế lớn trên thị trường gạo thơm do giá cạnh tranh hơn so với gạo thơm Hom Mali của Thái Lan và Basmati của Ấn Độ.

Trong thời gian tới, giá gạo thơm trong nước có thể tăng nhẹ, do sản lượng thu hoạch vụ Đông Xuân trên thị trường cũng đã bắt đầu khan hiếm - ông Đôn đánh giá.

Ông Phạm Thái Bình, Giám đốc Công ty cổ phần nông nghiệp công nghệ cao Trung An (Cần Thơ) cũng cho biết, lâu nay, doanh nghiệp thường tập trung vào mặt hàng chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn gạo sạch hữu cơ hoặc Global Gap nên đầu ra khá ổn định. Từ đầu năm đến nay, doanh nghiệp đã xuất khẩu 40.000 tấn gạo các loại, chủ yếu cũng là gạo thơm và nếp.

Theo ông Bình, hiện nhu cầu nhập khẩu gạo thơm của các nước, nhất là một số chủng loại gạo như Japonica, ST20, ST21, nếp… còn rất lớn. Xuất khẩu của doanh nghiệp ở phân khúc này khá tốt, thậm chí trong thời gian tới doanh nghiệp có khả năng còn không đủ hàng để cung ứng.

Xuất khẩu có nhu cầu, kèm theo giá bán ổn định nên nguồn gạo thơm nội địa trên thị trường hiện không còn nhiều. Ngay như trong vụ thu hoạch Đông Xuân vừa qua, một số doanh nghiệp, thương lái, bạn hàng sáo ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long còn tranh nhau mua lúa Jasmine trồng ở các khu vực Cần Thơ, Kiên Giang, Đồng Tháp.

Thậm chí, họ còn đặt cọc trước khi đến kỳ thu hoạch lúa khoảng 1 tháng. Thậm chí, có vùng lúa Jasmine xuống giống được khoảng 1,5 - 2 tháng là có bạn hàng hỏi đặt cọc để mua.

Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường, Bộ Công Thương cũng khuyến cáo ngành nông nghiệp cần bố trí cơ cấu giống linh hoạt theo tín hiệu thị trường, định hướng sử dụng nhóm lúa chất lượng cao chiếm khoảng 50%; giống lúa thơm chiếm khoảng 25%; giống nếp, đặc sản địa phương khoảng 15% và giống chất lượng trung bình chỉ chiếm 10% trong tổng diện tích gieo trồng.

Định vị bằng uy tín sản phẩm

Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), những năm gần đây, gạo thơm các loại đã chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu xuất khẩu gạo của Việt Nam. Đơn cử như năm 2016, xuất khẩu gạo thơm các loại đã đạt gần 1,4 triệu tấn, chiếm 28,5%; gạo nếp đạt trên 1 triệu tấn, đạt gần 21%...

Nếu như 2 năm trước đây sẽ không ai nghĩ có thể xuất khẩu được gạo Japonica, thế nhưng, đến năm 2016, xuất khẩu gạo này đạt 160.000 tấn, tăng 137% so với năm trước đó.

Mặc dù xuất khẩu tốt, nhưng theo các doanh nghiệp, vẫn có tình trạng cạnh tranh không lành mạnh ở phân khúc này. Một số doanh nghiệp lợi dụng mua gạo thơm không đảm bảo chất lượng, giá thấp rồi xuất khẩu cũng với giá thấp nhưng lại quảng cáo là gạo thơm chất lượng cao.

Dĩ nhiên, khi bị đối tác phát hiện, những doanh nghiệp này chắc chắn sẽ bị “tẩy chay”. Việc này vẫn ảnh hưởng tới mặt bằng giá chung cũng như uy tín của gạo Việt Nam.

Do vậy, để cạnh tranh được với gạo thơm của các nước, các doanh nghiệp cần chấm dứt tình trạng kinh doanh “hớt váng”, ảnh hưởng tới uy tín chung của ngành.

Công nhân nhà máy chế biến gạo Thoại Sơn, Tập đoàn Lộc Trời đóng gói gạo thành phẩm. Ảnh: Hồng Nhung-TTXVN

Việc định vị thương hiệu, uy tín cũng là điều mà các doanh nghiệp cần quan tâm, chú trọng trong bối cảnh thị trường lúa gạo thế giới luôn trong tình trạng cung vượt cầu nhiều năm nay.

Ông Nguyễn Trung Kiên, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Gentraco (Cần Thơ) cho rằng, mặc dù xét về tình hình chung thì xuất khẩu gạo đang trong giai đoạn khó khăn, nhưng vẫn có phân khúc thị trường doanh nghiệp có thể tận dụng tốt để đẩy mạnh xuất khẩu.

Chẳng hạn, ở thị trường Trung Quốc, nếu các doanh nghiệp vừa rồi đáp ứng yêu cầu về an toàn thực phẩm thì từ đầu năm đến nay xuất khẩu rất tốt.

Ngoài ra, thị trường Châu Âu, Australia, Singapore… cũng đang bắt đầu mở ra, nếu làm tốt công tác xây dựng thương hiệu thì sẽ là kênh đẩy gạo chất lượng cao của Việt Nam ra thị trường thế giới.

Ông Phạm Thái Bình cũng cho rằng, nếu Việt Nam làm được loại gạo có chất lượng tốt, nhất là chú ý vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm thì “đầu ra” rất tốt, không có vấn đề gì phải băn khoăn.

Trong xu thế hiện nay, doanh nghiệp cần tập trung vào vấn đề chất lượng, giống thì gạo Việt Nam sẽ bán với giá rất cao chứ không chỉ như hiện nay. Đây cũng là điều mà doanh nghiệp này đã làm trong những năm gần đây.

Theo các chuyên gia, ngoài yếu tố an toàn thực phẩm, các doanh nghiệp muốn giữ được khách hàng lâu dài cần lưu ý chỉ xuất khẩu gạo thơm đối với loại giống thuần chủng.

Trên thực tế, đã nhiều diện tích lúa thơm nhưng không sử dụng giống xác nhận.

Điều này đã dẫn đến tình trạng gạo thơm bị lẫn lộn với lúa thường, hoặc chất lượng gạo bị ảnh hưởng do hiện tượng thụ phấn chéo.

Bên cạnh đó, để tránh mua phải lượng gạo trộn, không đảm bảo yêu cầu thì doanh nghiệp nên chế biến, xay xát từ chính hệ thống nhà máy của mình.

>> Thủ tướng yêu cầu đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục