Châu Phi đối mặt với thảm họa kinh tế do dịch COVID-19

05:00' - 26/04/2020
BNEWS Lần đầu tiên sau 25 năm, châu Phi chịu ảnh hưởng từ một cuộc suy thoái mà nền kinh tế vốn rất mong manh của các quốc gia và tình trạng nợ nần chồng chất vượt quá sức chịu đựng.
Phân loại hoa quả xuất khẩu trong một nông trại tại Nam Phi. Ảnh: TTXVN

Theo nhật báo La Tribune của Pháp số ra ngày 20/4, mối lo lắng sâu sắc của lục địa này đã thay đổi. Không chỉ đơn thuần là một thảm họa về y tế, châu Phi giờ đây lo sợ hơn hết là một thảm họa về kinh tế do đại dịch gây ra.   

Trích dẫn đánh giá của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), tờ báo Pháp cho rằng châu Phi cận Sahara đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng chưa từng có, đe dọa sẽ kéo tụt cả khu vực xuống vực thẳm và đảo ngược những tiến bộ mà khu vực này đã đạt được trong những năm gần đây. Đại dịch COVID-19 đã khiến nền kinh tế châu Phi bị đình trệ hoặc gần như vậy. 

Còn theo nhận định của Ngân hàng Thế giới (WB), rất khó để đánh giá đầy đủ về mức độ nghiêm trọng của cuộc suy thoái ở châu Phi, có thể dao động từ 2% đến 4,5%. Đây là cú “tuột dốc không phanh” đối với không chỉ nền kinh tế châu Phi, mà cả châu Âu và Mỹ cũng đều phải đương đầu. Tuy nhiên, nhà kinh tế Kako Nubukpo, cựu Bộ trưởng tài chính nước cộng hòa Togo, nhấn mạnh rằng vấn đề là các nền kinh tế châu Phi đôi khi từng có những giai đoạn “sáng sủa” trước khi xảy ra đại dịch COVID-19.

Theo Ngân hàng Phát triển châu Phi (AfDB), các khoản nợ của hầu hết các quốc gia của châu lục này đã gia tăng đáng kể trong những năm gần đây, mặc dù tình hình giữa các quốc gia cũng có những thay đổi cơ bản. Nhìn chung, các khoản nợ so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã tăng từ 30% trong năm 2012 lên 56%, hoặc thậm chí đến 95%. Khả năng thanh toán nợ của các quốc gia châu Phi hiện đang là một thách thức và đôi khi là không thể. 

Đầu năm 2019, 18 quốc gia châu Phi đã trải qua một cuộc khủng hoảng nợ. Thêm vào đó là nguyên liệu thô vốn cung cấp phần lớn ngân sách ở nhiều quốc gia lại bị mất giá. Các quốc gia sản xuất dầu như Nigeria (quốc gia xuất khẩu dầu mỏ hàng đầu châu Phi), Angola và các quốc gia ở Trung Phi, đặc biệt là Gabon và Congo, là những nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. 

Nigeria đã xây dựng một ngân sách dựa trên giá dầu khoảng 60 USD/thùng, trong khi giá dầu WTI hiện nay đã rơi xuống mức âm lần đầu tiên trong lịch sử. Bên cạnh đó, ngành dịch vụ và du lịch, nguồn thu ngoại hối lớn khác đối với các quốc gia như Cape Verde, Seychelles, Kenya và thậm chí cả Nam Phi, cũng đã bị chững lại do COVID-19. 

Các dịch vụ công cũng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục và y tế. Giữa bối cảnh này, việc thanh toán nợ chính là một thách thức và đôi khi là không thể. Do vậy, nhiều quốc gia chủ nợ đã buộc phải xem xét xóa nợ cho châu Phi.

Tổng thống Pháp Emmanuel Macron từng đề nghị một biện pháp như vậy ngay sau hội nghị trực tuyến với các thành viên Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) hồi cuối tháng Ba vừa qua, trước khi nhắc lại đề nghị này với Thủ tướng Đức Angela Merkel và Thủ tướng Italy Giuseppe Conte mới đây. Ngay sau đó, G20 đã cấp viện trợ khẩn cấp và gia hạn nợ đến tháng 4/2021 cho 75 quốc gia, trong đó có 40 quốc gia châu Phi. 

Vấn đề là việc xóa nợ không hề đơn giản. Nhà nghiên cứu Serge Michailof, thuộc Viện quan hệ quốc tế và chiến lược Pháp (IRIS), giải thích: "Đó là một chiến dịch tinh vi, và không giống như những năm 1980, cấu trúc nợ lần này phức tạp hơn nhiều". Trong những năm 1980, các khoản nợ chủ yếu ở châu Phi được vay từ các quốc gia phương Tây hoặc các tổ chức quốc tế.

Tuy nhiên, phải mất 10 năm để điều chỉnh nguồn vay. Lần này, các khoản nợ công, khoảng 450 tỷ USD, được vay từ nhiều nguồn, như đa phương (chiếm 50%), tư nhân và các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia mới nổi, trong đó có Trung Quốc. Bắc Kinh là chủ của khoảng 150 tỷ USD tiền nợ mà các nước châu Phi đã vay.

Trích dẫn một báo cáo của Trung tâm phân tích và dự báo (CAPS) thuộc Bộ ngoại giao Pháp, tờ La Tribune cho biết thêm, ngoài khía cạnh tài chính, sự sụp đổ của các quốc gia yếu nhất ở châu Phi có thể dẫn đến các phong trào xã hội khó lường. Bên cạnh đó, nhiều nhà quan sát còn cho rằng tình trạng người lao động mất việc làm (khoảng 20 triệu việc làm) và thiếu triển vọng có thể đẩy nhanh nạn di cư, từ đó gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng khác nếu các nước không nhanh chóng tìm ra giải pháp./.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục