Một số điểm mới của Nghị định số 126/2020/NĐ-CP quy định Luật Quản lý thuế

19:08' - 01/12/2020
BNEWS Tổng cục Thuế đã tổ chức buổi họp báo chuyên đề giới thiệu về một số điểm mới đáng chú ý của Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ.

Chiều 1/12, Tổng cục Thuế đã tổ chức buổi họp báo chuyên đề giới thiệu về một số điểm mới đáng chú ý của Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ (Nghị định số 126) quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 (Luật Quản lý thuế số 38).

Ông Lưu Đức Huy, Vụ trưởng Vụ Chính sách (Tổng cục Thuế) cho biết, theo Luật Quản lý thuế số 38 có quy định về trách nhiệm của ngân hàng thương mại trong việc cung cấp thông tin về số hiệu tài khoản theo mã số thuế của người nộp thuế khi mở tài khoản và khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế phải nộp theo quy định pháp luật về thuế của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử có phát sinh thu nhập từ Việt Nam.

Căn cứ theo quy định tại Luật Quản lý thuế số 38, tại Nghị định số 126 (Khoản 2, Khoản 3 Điều 30) có quy định ngân hàng thương mại có trách nhiệm cung cấp các thông tin về tài khoản thanh toán của người nộp thuế mở tại ngân hàng cho cơ quan quản lý thuế, bao gồm tên chủ tài khoản, số hiệu tài khoản theo mã số thuế đã được cơ quan quản lý thuế cấp, ngày mở tài khoản, ngày đóng tài khoản.

Ông Lưu Đức Huy nhấn mạnh, cơ quan quản lý thuế có trách nhiệm bảo mật thông tin và hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự an toàn của thông tin theo quy định của Luật Quản lý thuế và quy định của pháp luật có liên quan.

Theo ông Lưu Đức Huy, theo quy định này, ngân hàng thương mại sẽ chỉ cung cấp thông tin liên quan đến tài khoản thanh toán và chỉ cung cấp những thông tin định danh cơ bản cho cơ quan thuế, không bao gồm các thông tin liên quan đến giao dịch của các tài khoản này.

Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Đặng Ngọc Minh cũng cho biết, hiện nay cơ quan thuế cũng đã phối hợp cung cấp cho các ngân hàng mã số thuế của người nộp thuế nên việc các ngân hàng cung cấp thông tin về tài khoản thanh toán của người nộp thuế cho cơ quan thuế là vấn đề hợp tác về cơ sở dữ liệu bình thường và hoàn toàn làm được.

Quy định “ngân hàng thương mại có trách nhiệm cung cấp thông tin giao dịch qua tài khoản, số dư tài khoản, số liệu giao dịch theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan quản lý thuế để phục vụ cho mục đích thanh tra, kiểm tra xác định nghĩa vụ thuế phải nộp và thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế theo quy định của pháp luật về thuế theo khẳng định của Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Đặng Ngọc Minh đây không phải quy định mới.

Cũng theo Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, việc cung cấp thông tin không gây ảnh hưởng cho khách hàng hay lo ngại làm khó cho ngân hàng vì Tổng cục Thuế có thông tư hướng dẫn theo cơ sở dữ liệu cho ngân hàng và hoàn toàn bảo mật thông tin người nộp thuế và chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Và việc yêu cầu cung cấp tài khoản ngân hàng chủ yếu nhằm quản lý các giao dịch qua mạng từ Facebook, Google, Youtube không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nhưng có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số với tổ chức, cá nhân trong nước...

Về tạm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp 3 quý, Lãnh đạo Tổng cục Thuế cho biết, Luật Quản lý Thuế số 38 có quy định đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, doanh nghiệp thực hiện tạm nộp theo quý và quyết toán thuế theo năm.

Nghị định số 126 sửa đổi quy định về nghĩa vụ tạm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp quý, cụ thể tại Điểm b, Khoản 6 Điều 8 nghị định quy định: “Tổng số thuế thu nhập doanh nghiệp đã tạm nộp của 3 quý đầu năm tính thuế không được thấp hơn 75% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp theo quyết toán năm. Trường hợp người nộp thuế nộp thiếu so với số thuế phải tạm nộp 3 quý đầu năm thì phải nộp tiền chậm nộp tính trên số thuế nộp thiếu kể từ ngày tiếp sau ngày cuối cùng của thời hạn tạm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp quý 3 đến ngày nộp số thuế còn thiếu vào ngân sách nhà nước.”

Về phân bổ nghĩa vụ thuế đối với trường hợp người nộp thuế hạch toán tập trung tại trụ sở chính nhưng có đơn vị phụ thuộc, địa điểm kinh doanh tại đơn vị hành chính cấp tỉnh khác nơi có trụ sở chính.

Khoản 3 Điều 42 Luật Quản lý thuế số 38 quy định: “Người nộp thuế thực hiện khai thuế, tính thuế tại cơ quan thuế địa phương có thẩm quyền nơi có trụ sở. Trường hợp người nộp thuế hạch toán tập trung tại trụ sở chính, có đơn vị phụ thuộc tại đơn vị hành chính cấp tỉnh khác nơi có trụ sở chính thì người nộp thuế khai thuế tại trụ sở chính và tính thuế, phân bổ nghĩa vụ thuế phải nộp theo từng địa phương nơi được hưởng nguồn thu ngân sách nhà nước”./.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục